Tuesday, December 28, 2010

“NHƯ MUỐI BỎ BỂ”

Muối bỏ bể” là một câu thành ngữ của dân tộc Việt. Dù là một thành ngữ xa xưa nhưng cho đến hiện nay, khi mà văn chương và đối thoại vẫn còn dùng đến mà không cần phải tra bất cứ loại từ điển thành ngữ nào cũng có thể hiểu được nó. Tuy vậy, vẫn thấy một sự cần thiết để viết lại những suy nghĩ, những hiểu biết về câu thành ngữ này trong mối liên hệ với công việc hiện tại, nghiên cứu giáo lý Cao Đài. Mục đích sau cùng là giúp cho bản thân có một cái nhìn rõ ràng hơn về trọng trách của công tác nghiên cứu, đồng thời làm cụ thể hơn về con đường nghiên cứu giáo lý này.

Từ ngày Cao Đài giáo chính thức được thành lập trên đất Việt Nam cho đến nay, trải hơn 80 năm ròng rã, đã có nhiều bậc tiền nhân minh triết đã có công biên soạn, viết ra những quyển sách liên quan đến giáo lý Cao Đài, giáo lý Đại Đạo. Những quyển sách đó cũng đã được phổ biến trong đạo hữu và nhân sanh cả nước hầu làm sáng tỏ đạo lý kỳ ba cho nhân sanh được hiểu. Ngày nay, nhìn lại công nghiệp đó từ con mắt của hậu bối thật đáng ngưỡng mộ và trân trọng. Song đối với sứ mạng của Đại Đạo dường như hãy còn chưa đủ. Bởi thế đức Lý Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo đã dạy như sau: "Này chư hiền, trước hết Bần Đạo nói về giáo lý. Đó là điểm quan trọng bậc nhất cho tiền đồ Đại Đạo. Mặc dầu mấy mươi năm qua, Cơ Quan cũng như các chi phái khác đã cố gắng phát huy biểu dương sâu rộng. Nhưng khách quan mà xét, thật là như muối bỏ bể, chưa thấm vào đâu, vì trong hàng hướng đạo có mấy ai thấu triệt và quan niệm đúng đắn. Đó là chưa kể đến những quan điểm mâu thuẫn nhau. Còn nhân sanh thì giàu nhiệt tình tin tưởng, nhưng thiếu một sự nhận thức cơ bản đúng đắn, nên gây ra hoang mang mơ hồ."

Như vậy, qua lời dạy trên, tôi tự hiểu rằng, nghiên cứu và truyền bá giáo lý là một công việc có tầm mức “quan trọng bậc nhất” so với các hoạt động tu học và hành đạo khác. Không phải đi sâu và phân tích tính quan trọng này, vì dù sao đi nữa điều mà chúng ta cần xác định lúc này là phương hướng của công tác nghiên cứu, hoạt động cơ bản nhất.

Tính từ thời điểm Cao Đài giáo ra đời đến hơn 55 năm sau đó, đức Lý đã công nhận công tác nghiên cứu giáo lý của Cơ Quan và các chi phái Cao Đài anh em đã có nhiều “cố gắng phát huy”“biểu dương sâu rộng”. Trong nhận xét này của đức Lý, chúng ta hiểu giáo lý được đề cập ở đây là phần kinh văn ngoài Thánh ngôn, Thánh giáo là lời dạy của Ơn Trên. Giáo lý, hay nghiên cứu giáo lý ở đây chính là công trình kết tập, biên soạn và khảo cứu của các vị tiền bối trong Cao Đài giáo. Tạm phân loại các công trình của tiền nhân các loại như sau1:

A. Nhóm các bài thuyết đạo

  1. Các bài thuyết đạo của đức Hộ Pháp

  2. Các bài thuyết đạo của đức Thượng Sanh Cao Hoài Sang

  3. Các rất rất nhiều bài thuyết minh giáo lý, thuyết đạo của các thánh sở Cao Đài.

B. Nhóm các sách khảo cứu giáo lý - sử đạo

  1. Chơn Lý, Nguyễn Trung Hậu, năm xuất bản 1928

  2. Đại Đạo Căn Nguyên, Nguyễn Trung Hậu (tự Thuần Đức), năm xuất bản 1930

  3. Đạo Mạch Tri Nguyên, Huệ Chương, năm xuất bản 1930

  4. Đạo Thống Chơn Truyền, Đầu Sư Ngọc Lịch Nguyệt, năm xuất bản 1934

  5. Lịch Sử và Triết Lý của Đạo Cao Đài, Gabriel Gobron, năm xuất bản 1949

  6. Thiên Đạo, Nguyễn Trung Hậu, Phan Trường Mạnh, năm xuất bản 1954

  7. Giảng Đạo Chơn Ngôn, Thái Đến Thanh, năm xuất bản 1957

  8. Trên Đường Tấn Hóa, Tiếp Pháp Trương Văn Tràng, năm xuất bản 1963

  9. Hội Lý Xiển Chơn Luận, Nguyễn Văn Kinh, năm xuất bản [không rõ]

  10. Đại Đạo Giáo Lý và Triết Lý, Hiền tài Trần Văn Rạng, năm xuất bản 1974

  11. ...và rất nhiều quyển sách khác nữa.

C. Nhóm các bài giảng giáo lý hạnh đường: [không thể thống kê]

Tạm đưa ra những ý kiến sau để hình dung rõ bức tranh của việc nghiên cứu, triển khai giáo lý thời trước:

Nội dung của các sách vở kinh văn thời trước (1985) cũng tập trung vào các chủ điểm:

  • Sử đạo:

  • Lý luận đạo học: luận về Đạo, chơn lý,...

  • Khuyến tu

Phương pháp chủ yếu được dùng trong các sách vở kinh văn thời trước (1985)

  • Dựa vào giáo lý Tam giáo để giải thích các điểm giáo lý Cao Đài

  • Phân tích về các trọng điểm giáo lý.

Tạm xét qua công nghiệp to lớn của tiền nhân cũng đủ thấy chất “muối” mặn nồng đã có, nhất định là có. Nhưng trong hình thể to lớn đó vẫn thiếu yếu tố nào đó khiến cho nó “chẳng thấm vào đâu”, nghĩa là vẫn không đủ, có thể là so với nhu cầu học hiểu đạo lý của nhân sanh hoặc kỳ vọng của Thiêng liêng đã đặt để. Yếu tố đó là gì?

Có thể cho rằng yếu tố đó chính là chiều sâu và chiều rộng của nền giáo lý Đại Đạo. Đức Lý dạy “có mấy ai thấu triệt và quan niệm đúng đắn”. Trong đó, “thấu triệt” chính là cái hiểu đi sâu vào bên trong đạo lý, nhận thức được cái tinh túy tinh ròng của giáo lý Tam Giáo, vạn giáo; và “quan niệm đúng đắn” chính là tầm nhìn trên phương diện bao quát của chơn lý. Chính vì yếu tố này chưa được vận dụng trong quá trình xiển dương giáo lý nên giá trị của việc làm tuy là đã đúng chất thế nên lại chưa được sâu đúng mức, rộng đúng tầm. Thiết nghĩ, nếu đây là sự thật thì sự thật này nằm ở hoàn cảnh lịch sử còn ở trong giai đoạn sơ khai của tri thức con người về nền tân giáo lý thời đại mới, chứ không hoàn toàn bởi lỗi lầm chi của con người cả. Vả lại, sự thiếu vắng yếu tố sâu - rộng này không diễn ra trong cuộc khảo cứu, biên soạn sách vở kinh văn của chư vị tiền bối, mà có lẽ cũng đã diễn ra trên phương diện hành chánh đạo. Khi việc phân chia phi phái đã trở thành nỗi lo lắng về tiền đồ Đại Đạo của chư vị hướng đạo việc cố gắng bảo thủ chơn pháp bằng mọi phương pháp đã khiến cho sự đố kỵ, đối kháng giữa các chi phái càng trở nên trầm trọng. Ảnh hưởng của việc đó là sách vở, kinh văn cũng đã bị kìm giữ để rồi sự truyền bá tư tưởng bị rơi vào trong hoàn cảnh không thể đi sâu và rộng trong mọi giới nhân sinh.

Ngày nay, tri thức của con người cũng phát triển đáng kể. Khoa học nhân văn trên thế giới cũng đã phát triển rất nhiều (nếu so với tri thức của cộng đồng Cao Đài). Tư duy của con người cũng có những thay đổi theo hướng cụ thể và có cấu trúc hơn. Nói cách khác, con người trong thời đại mới sẽ sâu sắc hơn bằng cái nhìn rất khác về chân lý, và như vậy cũng rất khác đối với giáo lý. Trong khi đó, các sách vở và kinh văn của chư tiền bối đa phần dựa trên nền tảng của đức tin tự có trong thân và niềm tin của một bộ phận quần chúng. Do vậy, luận lý trong các tác phẩm thời trước có phần giản lược. Ngày nay, trong chiều hướng mới, giáo lý cần được nâng lên một cấp nữa để phù hợp với tư duy của phần đông nhân sanh. Cấp độ mới đó được đức Lý dạy như sau: “Các em cần phải nâng cao tầm mức giáo lý cho có triết học, khoa học, văn học để tăng thêm tính chất hấp dẫn và phổ biến.” “Chư thiên ân đệ muội hãy làm thế nào cho giáo lý Đạo có một căn bản lý luận vững chắc, khoa học; và khai triển sâu rộng mọi mặt; giải đáp các vấn đề then chốt của triết lý siêu hình hiện đại khoa học v.v...”. Sự nâng cấp này không phải là nâng cấp về nội dung giáo lý, mà chính xác là cải tiến về phương thức truyền tải giáo lý đến mọi ngõ ngách của nhân sinh.

Một điểm khác từ cái nhìn về chiều kích sâu - rộng của quá khứ, ta cũng có thể nhận định rằng việc truyền bá giáo lý ngày trước vì tập trung khá nhiều vào các luận lý cao siêu thuộc cõi vô hình khiến cho những vấn đề thiết thực căn bản cho nhận thức của đa số nhân sanh đã không được triển khai đúng mực. Việc này, ít nhiều cũng tạo nên hoàn cảnh thừa chất cao thâm, thiếu chất vừa tầm nhận thức của con người đương thời. Các yếu tố căn bản như nghi lễ, ý nghĩa của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Pháp Chánh Truyền, nền tổ chức Đại Đạo,....chưa được phân tích, lý luận triệt để cho tương ứng với mọi tầng lớp nhân sinh không bị giới hạn bởi tính địa phương, chi phái.

Ngày nay, cũng có nhiều phong trào nghiên cứu và truyền bá giáo lý. Cũng có phong trào vận dụng lời dạy của đức Giáo Tông Vô Vi một cách mạnh mẽ. Sự mạnh mẽ đó thể hiện ở phong cách vượt qua vượt lên trên cái thường tình để khoác vào một chiếc áo phân tích có tính cấu trúc rất chi li. Tuy nhiên, bản thân chưa cảm nhận được hai yếu tố “thấu triệt” và “quan niệm đúng đắn” được thể hiện cụ thể vì lẽ tính chất “muối bỏ biển” vẫn còn y nguyên trạng thái. Có điều không hiểu vì sao nó được đặt tên “Đại Đạo” một cách sớm đến như vậy!

Như vậy với những suy nghĩ nêu trên, có thể tạm rút ra những bài học từ thành ngữ “muối bỏ bể” của đức Lý Giáo Tông thành như sau:

  • Việc biên soạn, nghiên cứu giáo lý từ trước đủ về tư chất, nhưng chưa đủ số lượng. Các quyển sách viết ra chứng tỏ được sở học của chư tiền bối. Tuy vậy, so với đạo lý bao la, nhu cầu to lớn của nhân sinh thì vẫn chưa thỏa mãn được. Do vậy, không gì khác hơn, thế hệ tiếp nối phải có được cái tư chất, tâm thức phải thấm nhập được đạo lý tinh vi, huyền nhiệm, tri thức phải sâu rộng để tiếp tục cái chất của tiền nhân. Không ngừng ở đó, chúng ta cần phải tăng cường công suất trong việc nghiên cứu, khảo cứu giáo lý sản xuất ra nhiều công trình hơn để giải thích mọi mặt của đạo lý, đáp ứng nhiều đối tượng nhân sanh hơn.

  • Việc biên soạn, nghiên cứu giáo lý tuy nói là đủ về chất, nhưng là chất theo chiều kích cao của nó. Vẫn còn một không gian rộng lớn để tiếp tục cái chất theo chiều kích sâu và rộng nữa. Có thể phong trào nghiên cứu theo lối phân tích chi li đang làm theo cách này. Tuy nhiên, phương pháp phân tích đơn thuần đang thách thức tính toàn thể của giáo lý Cao Đài, chứ chưa nói đến giáo lý Đại Đạo.

  • Việc nghiên cứu và truyền bá giáo lý Cao Đài cần phải vượt qua biên giới của chi phái, tư tưởng địa phương cục bộ. Vì lẽ, giáo lý Cao Đài là một cấu trúc hoàn chỉnh dù xuất phát từ một hệ phái nào đi nữa. Hệ thống cấu trúc của giáo lý Cao Đài cần được xác định trước hết,vì đó là nền tảng cho sự quy hiệp tinh thần của những dị biệt, phân chia của quá khứ. Từ đó, tạo nên một hệ thống hoàn chỉnh của giáo lý Cao Đài.

  • Khi đã có một hiện tượng, một thực thể giáo lý Cao Đài cụ thể, giáo lý Đại Đạo là bước tiếp theo để dung hợp mọi dị biệt do văn hóa, tư tưởng, niềm tin. Theo dự phóng của quan điểm cá nhân, giáo lý Đại Đạo là một hệ thống các quan điểm giáo lý của Tam giáo đạo. Mà ngay cả xác định hệ thống Tam giáo đạo vẫn còn là một quan điểm vừa có, vừa không.

  • Trên nguyên tắc kế thừa và phát triển thì “muối bỏ biển” lại càng thấy rõ ràng hơn. Sau một thế hệ, một loạt công trình được công bố, truyền bá thì mọi việc ngưng đọng lại đó. Mỗi một thế hệ lại có cách đi riêng và gần như không được xây dựng, kế thừa từ các quan điểm, công trình trước đó. Nếu có chỉ là sự tạm mượn mà thôi. Hoàn toàn không có nhận xét, đánh giá các biên soạn, khảo cứu trước đó. Nguy hiểm hơn hết là thế hệ sau lại có thể diễn dịch từ muối bỏ bể thành ra chưa đạt giá trị đích thực.

  • Cuối cùng, các ý tưởng dù lớn hay nhỏ, dù thành văn hay bất thành văn cho rằng sách vở kinh văn từ trước vì gắn liền với thành ngữ “muối bỏ bể” này mà trở thành ra không còn ý nghĩa nữa đối với hậu học về sau là không hợp lý. Để nó tồn tại vì lý do phát triển chơn pháp nhất thời là bảo tồn một biến dị của di truyền trong thánh thể của chân lý.


Thanh Long

11/2010


1Đối với các công trình nghiên cứu, khảo cứu của CQ.PTGLĐĐ từ trước đến năm 1985 không thể thống kê vì không có nguồn thông tin.

Monday, December 27, 2010

MƯA ĐẠO


Nếu lần trước chuyến đi liên giao hành đạo được xem là một đợt “hấp thụ bụi” thật dữ tợn1, thì chuyến đi về Tiền Giang ngày 14/12/2010 vừa qua có thể xem là chuyến đi “thấm nhập” được ơn phước qua những cơn mưa. Giữa tháng 12, trời bắt đầu những cơn lành lạnh đây đó, thì bất chợt lại có tin áp thấp tràn về. Ảnh hưởng quả là rõ đến Sài Gòn và các tỉnh lân cận. Mưa nhiều ngay cả trong tiết mùa Noel! Bầu trời không tươi tắn, dù những gương mặt quen thuộc trên mọi nẽo đường rất rạng rỡ. Phải nói là tươi sáng hơn khi huynh Chí Thật “rủ” vào “quán mối” để điểm tâm bằng bốn tô hủ tíu mì và bánh mì ngọt do đạo tỷ Bạch Cúc đã cẩn trọng chuẩn bị trước đó. Nắng sáng đã đến giờ mà lại lười không ra, nhưng không sao, đã có bốn bộ đồ trắng đủ “sáng chói” vi vút trên con đường dài dẫn đến Thánh tịnh Nguyệt Thanh Quang tham dự buổi lể đón mừng tư cách pháp nhân tổ chức tôn giáo.

Dù đã hỏi han, và chuẩn bị khá kỹ, chuyến đi vẫn là sự dò dẫm từng nẽo đường để có thể đến được Thánh tịnh. Thay vì đi theo đường trong bản đồ, chúng tôi lại đi theo....kinh nghiệm của lần trước. Điều đó khiến chuyến đi có vẻ dài hơn như nó có thể là! Không sao, lần đầu nào mà chẳng phải thế...Nhưng e ra đã và sẽ có khá nhiều lần đầu như thế này. Khi đoàn chúng tôi đã ở đâu đó ở Tiền Giang thì trời bắt đầu đổ mưa. Không lớn, nhưng cũng đủ ép chúng tôi phải mặc áo mưa. Nhất là, không biết còn phải đi bao xa nữa thì đến đúng cái nơi cần đến.

Xe cứ chạy, mưa cứ rơi trên những đoạn đường ngoằn nghèo, quẹo đây, quẹo đó....Mãi hơn hai giờ đồng hồ chúng tôi mới có tin vui đầu tiên của chuyến đi...Sắp đến rồi! Huynh Chí Thật vẫn rất điềm nhiên báo tin. Chẳng là huynh vừa mới dừng lại đổ thêm xăng cho con tuấn mã sắt cũng là lúc gặp được người bán xăng...đồng đạo và là đạo hữu của Nguyệt Thanh Quang luôn. Huynh bán xăng chỉ cho con đường đến Thánh tịnh nghe có vẻ gần lắm...tới cầu Tân Hòa quẹo phải liền sẽ thấy cờ đạo treo! Ồ, nhanh đến thế là cùng. Không ngờ đến mà không hay! Đi theo sự hướng dẫn của huynh hơn cả tiếng mà cờ đạo vẫn bặt vô sắc tướng! Hỏi han người dân trên đường thì quý vị rất vui vẻ hướng dẫn bằng một câu rất quen cứ đi thẳng theo lộ này đến hết đường.Ui mèn ơi....bao giờ cho đến hết đường. Không bận tâm vì chuyện gió mưa, hay xa xôi, không bận tâm mấy bộ đồ trắng đang ngã sang màu đen của đất, chúng tôi vẫn nhứt tâm...đi tiếp. Đường quê đã tráng nhựa, nhưng nhiều đoạn vẫn còn...sình. Mà sình thì thích bám. Mà đã bám thì bám được vào đâu cứ bám thôi. Thế nên mấy cái ống quần chuyển màu xám hết trọi.

Mưa đã ngớt, cảnh vật hai bên thật đẹp. Nắng đã nhẹ lên từ lúc nào mà chẳng hay. Ruộng lúa vàng ươm, mướt rượt. Vườn trái thanh long cơ man là nhiều trên suốt đoạn đường đi. Sau này, chúng tôi nhận ra càng nhiều vườn thanh long, là lúc càng gần Thánh tịnh. Khi chúng tôi gần như ở cuối đường thì một chiếc bản vàng be bé xinh xinh hiện ra trước mắt với hình ảnh lá cờ đạo nho nhỏ nhưng đủ thu hút những tâm hồn đang hớt hãi tìm đường đến nơi thanh tịnh! Dòng chữ xanh xanh ghi trên đó không lớn lắm mà sao dễ thương đến lạ kỳ: đường đến Thánh tịnh Nguyện Thanh Quang, còn 1000m! Hay quá, không phải là 1000km! Không chờ thêm bất cứ thông tin nào, chúng tôi lao vun vút vào con đường nhỏ đó với tốc độ khoảng 40km/h. Toàn là vườn trái thanh long hai bên vừa chào đón vừa mở lối cho chúng tôi đến nơi! Đi thêm hồi nữa, lại thấy một chiếc bảng y chang hồi nãy dễ thương quá sức ở trước mặt ...còn 800m! Tám trăm à? Không thành vấn đề...chúng tôi tiếp tục đi vào đoạn đường đủ cho một chiếc xe và hai người trên nó di chuyển rất từ tốn...Lần này thì đúng là cờ đạo dẫn lối, còn vườn trái thanh long hai bên thì đảm bảo chỉ có một đường thẳng mà đi, chớ đừng hòng quẹo hay ráng lách đi hàng hai! Rút cuộc, trước mắt chúng tôi là một nhóm người áo trắng thân quen....Đến rồi! Lòng mừng khấp khởi! Sau cùng cũng thấy được nơi cần đến.

Chúng tôi gặp người đồng đạo, vừa chào hỏi, vừa di chuyển vào chổ gửi xe. Đảnh lể đức Chí Tôn xong, nhưng lể vẫn chưa tiến hành. Ngoài trời mây xám bao vây khung trời cao. Nhưng không làm giảm mức náo nhiệt của màu sắc ngôi Thánh tịnh và sự tỏa sáng của những chiếc áo dài trắng khắp nơi. Vẫn theo một trình tự thông thường, buổi lễ bắt đầu và kết thúc trong viên mãn đầy đủ ý nghĩa với dự tham dự của rất đông đạo hữu địa phương, các thánh thất, thánh tịnh lân cận và các cấp chính quyền sở tại, đại diện các cấp. Không cần phải nói thêm tên của một phái đoàn có liên quan đến bài viết này thì mọi người cũng có thể hình dung ra.

Thánh tịnh Nguyệt Thanh Quang trước đây trực thuộc Hội Thánh Cao Đài Thống Nhất. Hiện nay được cấp pháp nhân tôn giáo hoạt động độc lập. Được xây dựng từ khoảng năm 1938, trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử đến nay Thánh tịnh vẫn hành đạo trong tinh thần Cao Đài. Điều đáng chú ý là sự lưu tâm học hỏi giáo lý của quý chức sắc và đạo hữu sở tại. Hằng tháng đều có mời thuyết minh giáo lý. Trong đó, Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý cũng tham gia hổ trợ công quả quý báu này đối với Thánh tịnh.

Trước khi ra về, theo thông lệ rất Cao Đài chúng tôi dự tiệc chay thân mật. Sau tiệc chay, là cảnh tay bắt tay, miệng cười thiệt tươi, đương nhiên là tươi hơn rất nhiều so với trước đó, để chào tạm biệt những người anh em đồng đạo và hẹn ngày gặp lại.

Cũng như lần trước, lần đi về này chúng tôi cũng được hướng dẫn đi con đường nhanh nhất, trơn tru nhất để về nhà. Nhưng hình như chúng tôi đang học bài học về thỉ chung hay sao ấy. Lúc đi gặp mưa thì về cũng phải có mưa mới xứng cặp đối đãi đi – về. Cơn mưa đường về rất lớn, nên huynh Chí Thật vì sự an toàn đã buộc phải dừng lại quán nước ven đường để vừa tránh mưa to, vừa lo lấy thêm sức để lát chạy về cho lẹ. Lần này, thì chúng tôi không để tâm trạng đến sình bùn trên quần áo nữa. Mà chắc cũng chẳng còn chổ để bám thêm đâu mà nghỉ ngợi cho cực. Cứ thế mới là hành đạo! Ngồi nghỉ hồi lâu, xem chừng con mưa đang tạm nghỉ mệt, mà chúng tôi thì cũng thêm sức, nên quyết định tức tốc lên xe vượt nước ngập do mưa phi thẳng về nhà.

Có lẽ lần trước hành đạo chung với bụi, nên đã làm động điển mà Ơn Trên thương tình ban bố 3 trận mưa để làm cho chuyến đi lần này bớt bụi? Không biết nói sao, nhưng kỳ thực lần nay không dính bụi quá nhiều ngoại trừ....sình thì dính nhiều lắm! Dẫu sao cũng thấy rất vui trong lòng khi cảm thấy hình như tâm mình đã gọi được sự quan tâm của Ơn Trên!

Trúng cơn mưa khi mà sức chưa hồi phục hẳn, nên lăn ra ngủ li bì, bí tỉ. Cầu mong quý huynh tỷ về tới CQ, vẫn khỏe để chuẩn bị cho tuần sau...đi tiếp.


Về Tiền Giang, 14/12/2010

Thanh Long

1Xem bài viết Bụi Đạo.

Monday, December 13, 2010

VÀI SUY NGHĨ VỀ HAI CHỮ “HÀNH ĐẠO” CỦA NGƯỜI CAO ĐÀI


Hai chữ “hành đạo” không phải là từ mới trong tiếng Việt. Dù không thể chứng minh được nó có từ khi nào, nhưng cũng phải thừa nhận rằng nó có từ rất lâu khi mà con người bắt đầu hiểu và xác nhận về một thế giới thiêng liêng và bằng cách này hay cách nọ, người ta gọi chung là Đạo. Cái đạo ấy vốn tự thân vận hành mà điều quản sự sống còn của vũ trụ. Còn hai chữ “hành đạo” lại nói về vai trò của con người trong sứ mạng tại thế gian. Tuy hai chữ này được dùng rất nhiều trong các tôn giáo khác, ngoài Cao Đài nhưng thật ra chúng có một ý nghĩa rất đặc biệt với người Cao Đài. Nếu nói không quá thì hai chữ này là một đặc trưng của Cao Đài giáo. Vì sao?

Trước hết, phân tích khái niệm này để hiểu hơn về nó. Muốn hành đạo thì trước hết phải có sự việc, sự kiện nào đó. Tất cả những sự việc, sự kiện ấy được người Cao Đài gọi là “đạo sự”. Chính bởi vì có đạo sự, nên tín hữu Cao Đài mới thực hiện đạo sự ấy mà gọi là hành đạo. Bất kể là việc gì, hễ có liên quan đến con người, công tác hay thánh sở, cơ quan đạo Cao Đài thì được xem là đạo sự. Do vậy, “hành đạo” được dùng để chỉ mọi hoạt động tôn giáo, tâm linh của người Cao Đài. Nói như thế thì e ra tôn giáo nào cũng hành đạo cả, chỉ khác là hành đạo theo cách thức Cao Đài hay Phật giáo hay Lão giáo mà thôi. Và đã như vậy thì sao gọi là đặc trưng của Cao Đài được? Phải nói rằng, đã là người tín đồ Cao Đài cho dù ở vị trí nào đi nữa thì cũng phải hành đạo. Chức sắc, chức việc có “cái đạo riêng” để hành, mà người tín đồ thông thường cũng có “cái đạo riêng” để hành. Bất kỳ ai hễ là tín đồ của đức Chí Tôn đều có cái đạo để hành xử, vận dụng trong cuộc sống thường nhật. Ngay trong lời dạy của đức Quan Thế Âm Bồ Tát về bảy bước trên đường tu học của người tín hữu Cao Đài thì hành đạo là bước thứ 6. Ở đây, hành đạo trở thành cuộc sống của mỗi người tín hữu Cao Đài. Đây là một đặc điểm không dễ thấy ở các tôn giáo khác, và rất khác so với đời sống tu học của tín hữu các tôn giáo. Để hiểu vấn đề này, chúng ta hãy tuần tự xem xét các khía cạnh của “hành đạo” thông qua các đạo sự của người Cao Đài.


Hành đạo tức là sứ mạng vi nhân của chư đạo hữu, chư hiền đệ, hiền muội vậy

Đức Bác Nhã Thiền Sư

Minh Lý Thánh Hội, Tuất thời 03 tháng Ba Giáp Dần (26-03-1974)


A. Hành đạo là thực hiện đạo sự

Đạo sự 1: Công quả

Công quả là cách nói của tín đồ Cao Đài. Nó được dùng để chỉ những việc làm có ích cho tập thể, cộng đồng mà không đòi hỏi một sự trả ơn nào. Từ những việc thông thường nhất như nấu bếp, dọn dẹp trong thánh sở đến những việc dùng trí não như nghiên cứu giáo lý, thuyết minh giáo lý, thảy đều nằm trong khái niệm “công quả”. Người tín đồ Cao Đài không dùng các công tác đem lợi ích cho xã hội để mưu cầu lợi ích cho riêng mình. Những việc thuộc công quả được thực hành như một phương tiện rèn luyện thân tâm trong quá trình tu học kể từ lúc nhập môn vào Cao Đài. Nhưng việc nhờ thực hành công quả mà được sự yêu mến của nhân sinh là cái lý “hữu xạ tự nhiên hương”.

Không đi sâu vào phân tích ý nghĩa và nội dung của công quả nhưng đối với những ai đã là tín đồ Cao Đài thì đây là đạo sự thiết yếu cho việc hành đạo, tạo nên đạo nghiệp của bản thân. Sự tu tiến của tín hữu Cao Đài đặt nền tảng trên công quả. Công quả theo cách hiểu của người Cao Đài không đơn thuần là tạo phước đức để thụ hưởng cho cuộc sống tại thế gian. Giá trị của công quả là một trong những thước đo cho sự tinh tấn trong tu học. Bản thân khái niệm công quả này cũng có nhiều cấp độ.

Xét cho tận cùng lý thì ta sẽ thấy giá trị của công quả theo cách mà Thiêng liêng đã dạy cho tín hữu Cao Đài. Công quả dù nhiều bậc, nhiều cấp, nhiều hình thái nhưng chung quy đó là quá trình xây dựng và mở đường cho đạo nghiệp của cá nhân. Điều đó có nghĩa, trên một phương diện khác, là xây dựng móng nền để tiến hóa tâm linh. Càng thực hiện công quả, móng nền tu học, con đường tiến hoá càng được mở rộng và nối dài để đến được Ngọc Kinh, sự giải thoát cao tột. Đức Mẹ đã minh xác lý đó trong đàn cơ ngày Hai mươi Sáu tháng Chạp năm Nhâm Tý (29-01-1973):

...“Có thương con mới dày công quả,

Công quả là đường đến Ngọc Kinh

Trong mối liên hệ với nhân sinh, công quả chính là việc bỏ bớt những ham muốn thường tình hầu lập vị, lập công bù trừ cho những hoạn nạn của toàn thể nhân sanh như lời dạy của đức An Hòa Thánh Nữ:

Cố gắng quả công cho vẹn toàn,

Để đền đáp nghĩa nước sông non,

Đồng bào dân tộc đang đau khổ,

Dưa muối mình đây cũng gọi ngon.1

Như thế cũng làm rõ được ý nghĩa vì sao công quả cũng là hành đạo vậy.


Đạo sự 2: Từ thiện xã hội

Làm từ thiện xã hội cũng là thực hành công quả. Chỉ có điều khi nói đến từ thiện xã hội là nói đến các công tác chung tay với chính quyền nhà nước vận động và hổ trợ các công tác xã hội như: xây dựng nhà tình nghĩa, tham gia phong trào xóa đói giảm nghèo, ….Nói cách khác, đây là hình ảnh đồng hành của cơ sở tôn giáo và tổ chức xã hội trong việc làm có ích cho nhân sinh đại chúng.

Cũng như các tôn giáo khác, Cao Đài đã và đang là một bộ phận của xã hội nhân sinh, nên một trong các hoạt động đạo đức của từ thiện xã hội. Một phần là thực hành công quả, phần khác là biểu hiện cho lý tưởng đạo đời tương đắc. Đó là cái lý của một tồn tại tôn giáo như lời của

Nhà tôn giáo xây trong xã hội,

Để làm chi vậy hỡi linh căn?

Mất công bằng, tìm công bằng,

Dựng đời sống thực ở ăn trọn lành.2

Đạo sự 3: Công phu

Bên ngoài thì thực hành công quả. Bên trong thì lại lo rèn luyện thân tâm. Người Cao Đài hành đạo thì nhất định phải thực hành những việc bên ngoài, và cả những việc bên trong. Chính nhờ cái đạo bên trong được vận hành hanh thông không trắc trở mới giúp người tín đồ Cao Đài thực hiện các việc ở bên ngoài thân được suôn sẻ không vướng mắc.

Công phu của người Cao Đài thông thường thì có cúng tứ thời. Công phu trên phương diện đạo pháp thì có thực hành pháp môn theo tân pháp Cao Đài. Tất cả đều được xem là công phu. Dù rằng không phải tín hữu Cao Đài nào cũng thừa nhận vấn đề công phu, thực hành đạo pháp, song thực tế của lịch sử hình thành và phát triển của Cao Đài giáo không bao giờ thiếu phần này. Như pháp tu của vị đệ tử đầu tiên của đức Chí Tôn là Đại Tiên Ngô Minh Chiêu chứng minh điều đó. Đặc điểm rất hay trong Cao Đài giáo là có pháp môn cho tất cả tín đồ từ bực sơ cơ và tu trong hoàn cảnh bình thường của cuộc sống. Đây là một đặc trưng của Cao Đài.

Siêng lo hành đạo lập công phu,

Bất cứ người nào cũng dễ tu;

Sự sống hàng ngày chen đạo lý,

Khỏi cần thạch động với non vu.3

Đạo sự 4: Liên giao

“Hanh” là một trong bốn đức lớn của Trời theo Dịch lý. Hanh nghĩa là hanh thông, thông suốt. Học đức lớn ấy mà người Cao Đài đã tổ chức liên giao giữa các thánh sở, giữa các Hội Thánh với nhau. Vì lẽ hành đạo là làm cho hanh thông những khác biệt do ngăn cách địa lý, văn hóa, giáo dục đã tạo nên những khác biệt. Việc liên giao này nhằm tạo nên những mối liên kết tình đạo ngày một thêm đậm đà mang nhiều sự thông cảm, sẽ chia và thấu hiểu.

Công tác liên giao không làm cho sôi nổi sự hiểu biết về giáo lý, không làm tỏ rõ được lý đạo. Nhưng nhờ liên giao mà tâm đạo được nới rộng hơn quan điểm cục bộ, địa phương có phần tư kỷ. Liên giao thể hiện sự thống nhất tình đạo, nên có thể nói rằng liên giao chính là phương thức hành đạo theo đúng với Thiên lý.

Hãy đoàn kết sắp tuồng đạo đức,

Hoạt động trong lãnh vực tình thương,

Nhẫn kiên, hòa ái, khiêm nhường,

Hễ người đức độ muôn đường vinh quang.4

Đạo sự 5: Học hiểu giáo lý

Cơ sở của việc hành đạo là khả năng hiểu giáo lý do các đấng Thiêng liêng giáng dạy trong nhiều năm khai đạo. Không có cơ sở giáo lý thì mọi hành động chỉ là việc “làm theo” thời thế mà không thấy được sứ mạng trọng đại của Cao Đài trong thời kỳ thứ ba này. Học hiểu giáo lý làm đường hướng đúng đắn người tín hữu Cao Đài vén màn vô minh loại trừ chướng ngại trên đường hành đạo. Mỗi cá nhân tín hữu Cao Đài hễ vào đạo phải xem việc học hiểu giáo lý là đường lối hành đạo cho cuộc sống thường nhật có giá trị tâm linh.

Tu phải học hiểu qua giáo lý,

Giáo lý là kim chỉ hướng Nam,

Cho con nhập Thánh siêu phàm,

Khỏi vòng luân chuyển con tằm nhộng tơ.5

Đạo sự 6: Trao đổi giáo lý

Học giáo lý là tự thân giác ngộ. Trao đổi giáo lý là tìm thấy chơn lý của Thầy trong các anh em cùng học đạo. Không có việc cá nhân, hay tổ chức nào sở hữu giáo lý, chơn lý. Chỉ có những cá nhân, tổ chức tôn giáo có học nhiều, học có bài bản lời dạy của Thầy Mẹ và các đấng thiêng liêng. Một đặc điểm của Cao Đài giáo là mỗi một Hội Thánh, Cơ Quan đạo có thể được giảng dạy những bài học riêng để phù hợp với trình độ tu học của mỗi nơi. Nhưng tựu trung tất cả phải là một hệ thống nhất quán, dù rằng cho đến thời điểm này điều đó không được chứng minh một cách cụ thể. Tuy nhiên, đã gọi là hành đạo thì việc trao đổi giáo lý có tổ chức là hành đạo mang đầy đủ đặc trưng của Cao Đài giáo. Bởi thế cho nên các thánh sở Cao Đài không chỉ là nơi thờ phượng, cúng bái, thiền định. Thánh thất, thánh tịnh, cơ quan đạo phải làm chức năng là giáo đường dạy đạo lý, Thánh ngôn, Thánh giáo mới làm tròn trách vụ giáo hóa nhơn sanh như lời dạy của đức Đại Tiên Lê Văn Duyệt: “Tịnh thất là một phương tiện giáo hóa nhơn sanh ở từng địa phương và cũng là nguồn lạch của tòa thánh, hội thánh”.

Trong những năm gần đây, việc các Hội Thánh trong Cao Đài đang tuần tự xây dựng các nội dung giáo lý cho toàn đạo là hình ảnh cụ thể của việc hành đạo trên phương diện trao đổi giáo lý. Với quy mô nhỏ hơn, ba đơn vị gồm Hội Thánh Truyền Giáo, Hội Thánh Minh Lý và Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo đã liên tục hiệp lực trợ tác cho nhau mở các lớp học, thảo luận kinh Dịch, hội thảo chuyên đề giáo lý. Đó chính là hành đạo trên phương diện trao đổi giáo lý.

Đạo sự 7: Công trình

Đây không phải là một đạo sự cụ thể. Đây chỉ mang tính chất tổng hợp để xem xét sự viên mãn, hoàn toàn và nhất quán của các công tác đạo sự trên. Tất cả những đạo sự trên diễn ra thường xuyên và phản ánh đúng tinh thần Cao Đài thì điểm số công trình này càng cao. Nhưng nếu diễn ra thường xuyên mà lại phản ánh màu sắc tư lợi, cơ hội, mượn danh nghĩa việc tốt để yêu cầu quyền lợi riêng tư thì điểm số công trình này sẽ không cao. Đó chính là tinh thần hành đạo của người Cao Đài.

Công trình là sự thể hiện đức tính trì thủ vì đạo nghiệp. Đó là một quá trình tích lũy âm chất từ lúc giác ngộ đạo lý đến ngày trả lại cho tứ đại xác thân đã vay mượn.

Như vậy có thể tạm thấy “hành đạo” có một ý nghĩa rất phổ quát bao hành nhiều ý nghĩa đạo lý. Tạm mượn lời dạy của đức Quan Thế Âm để có cái nhìn khái quát về một quá trình “hành đạo”

Học đạo muốn thông đạt lý truyền,

Dặn lòng chớ vọng ý tư riêng,

Đạo trong trời đất, trong muôn vật,

Đạo cũng ta người, cũng Phật Tiên.

Hành đạo làm người cho xứng đáng,

Học cơ mầu nhiệm phải cần chuyên,

Chưa nên, nên tựa nương ơn Thánh,

Thánh tự tâm linh, Thánh mặc truyền.6


B. Phương thức hành đạo

Dù đã có nói ở trên về phương thức hành đạo trong mỗi hình thức đạo sự, thiết nghĩ cũng nên nói rõ hơn hầu làm cụ thể hơn cách thực hành. Trong bài viết này, phương thức “hành đạo” được xem xét trên hai phương diện, đạo lý và nhân sinh.

Trên phương diện đạo lý: tức xem xét nguồn cội và căn cơ của việc “hành đạo”

Căn nguyên của hành đạo nằm trong Tình Thương. Các đạo sự được thực hiện bởi người Cao Đài xuất phát từ ý nghĩa cao thâm của Tình Thương Vô Ngã. Đó không phải là tình cảm mong manh trong cuộc sống giữa những con người với nhau. Tình Thương ở đây chính là sự trực nhận giá trị tâm linh về cuộc đời thực sự, con đường thực sự của một kiếp nhân sinh. Tình Thương ở đây chính là sự rung động của lương tri trong thể cách con người trở về nguồn cội thiêng liêng. Tình cảm sâu sắc này chỉ có được nhờ sự giác ngộ, hiểu biết về lẽ Một của trời đất. Bởi thế, Tình Thương vừa là động lực thúc đẩy người Cao Đài hành đạo, cũng vừa là điểm đến tâm linh cho những ai hành đạo thuần chơn.

Động lực của hành đạo là đức tin: Cùng với Tình Thương, đức tin là cơ sở của mọi đạo sự lớn hay nhỏ. Đức tin chính là sự hiểu biết được bồi dày dặn hơn trong quá trình tu học và hành đạo. Đức tin chính là sự trưởng thành hơn trong hành đạo, thực hiện vai trò, trọng trách của mỗi người tín đồ Cao Đài. Đức tin là sự thể hiện ra bên ngoài trong mỗi hành vi, lời nói và suy nghĩ của người Cao Đài. Không có đức tin thì không có hành động đúng đắn, đúng lý.

Ba điều không của người hành đạo: vô công, vô kỷ và vô cầu. Đây là hệ quả của động lực Tình Thương. Khi hành đạo, thực hiện bất cứ đạo sự nào đi nữa, người tín hữu Cao Đài đều lấy ba điều này là phương châm hành xử. Thực hiện ba điều không này chẳng phải là việc dễ dàng. Sự thành thục của mỗi cá nhân thể hiện tâm đạo và sự hiểu biết đã đạt gần tới điểm ranh giới của phàm nhân và thánh triết. Ngoài ra, Tâm hành đạo của người Cao Đài còn có phương châm “Thuần Chơn Vô Ngã” hay “Thuần Túy Đạo Đức”, nghĩa là làm việc đúng đạo, hợp nhân sinh; không làm chính trị, đảng phái; hoặc tư lợi.

Trên phương diện nhân sinh: tức là xem xét “hành đạo” trong thực tế hoạt động của con người thế gian

Lập kế hoạch, lên công tác tổ chức một cách rõ ràng. Bất cứ một công tác hành đạo nào cũng cần được tổ chức và lên kế hoạch một cách cụ thể. Lý do trước hết là do mỗi tín hữu Cao Đài có nhiều vai trò trong cuộc sống từ gia đình, cộng đồng, xã hội, tổ chức tôn giáo. Thứ nữa, mỗi đạo sự luôn đòi hỏi sự thành tâm, đầu tư thời gian và công sức cho thật hiệu quả.

Đôi khi cũng có quan niệm cho rằng cứ tùy thích mà tham gia công quả. Đó không hẳn là thực hành công quả. Việc không có kế hoạch để tham gia vào đạo sự công quả thường gây ra những tác hại như không có đủ thời gian tham gia công quả, không thể cùng tổ chức thực hiện một công quả có quy mô lớn, thiếu hụt nhân sự do tổ chức kém,....Do đó, hành đạo là một công tác đòi hỏi phải có óc tổ chức, khả năng lên kế hoạch một cách cụ thể cho cả cá nhân và tập thể.

Nguyên tắc hiệp tác hòa ái. Nhân sinh thường nhiều ý, nhiều quan điểm. Nên phải dựa trên nguyên tắc tôn trọng và hòa ái trong hiệp tác hành đạo. Mỗi đạo sự cần có nhiều bàn tay chung nhau thực hiện thì càng phải có chủ trương hòa ái, tôn trọng làm nền tảng của sự thống nhất tinh thần.

Minh bạch trong phận sự. Công tác nhân sự là một công tác nhiều khó khăn cho cả tổ chức đời và tổ chức tôn giáo. Trong hoạt động tôn giáo lại càng khó hơn gấp bội vì nó dựa trên nguyên tắc tự giác và bình đẳng rất cao. Sự minh bạch trong phận sự không phải là rào cản cho sự tương trợ, tương thân. Nó lại không thể là cơ sở phân định cao thấp. Nó phải là giới hạn trách phận mà mỗi người cần phải thực hiện trọn vẹn, và chỉ nên có nghĩa đó mà thôi.


Nói tóm lại, con người ai cũng sinh sống giữa trần gian vô thường này. Nhưng sống đúng nghĩa là sự sống phù hợp với quy luật tạo hóa của vũ trụ thiêng liêng. Tu hành chính là phương cách sống phù hợp thiên lý đó, mà hành đạo là sự thể hiện ra bên ngoài cái tính hợp lý, thống nhất giữa con người với thiên lý. Do vậy, hành đạo chính là sống đúng đạo lý, phù hợp với nhân văn. Trên phương diện văn hóa, thì hành đạo tức là nét đặc trưng của người đạo Cao Đài. Tạm mượn lời dạy của đức Quan Thế Âm để kết lại những suy nghĩ về hai chữ “hành đạo”


Vì đời hành đạo giúp nhơn gian,

Cho kẻ đi sau bước một đàng,

Bác ái, tình thương nêu trước hết,

Của người môn đệ thọ Tiên ban.7


1Đức An Hòa Thánh Nữ, Văn Phòng Phổ Thông Giáo Lý, Ngọ thời, Mười Bốn tháng Năm, Mậu Thân (09-06-1968)

2Đức Hồng Cúc Tiên Nương, Thánh thất Nam Thành, Tuất thời, Rằm tháng Hai Kỷ Dậu (01-04-1969)

3Đức Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo, Ngọc Minh Đài, Tuất thời Rằm tháng Giêng, Kỷ Dậu (03-03-1969)

4Đức Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo, Thiên Lý Đàn, Tuất thời Ba Mươi tháng Hai Ất Tỵ (01-04-1965)

5 Đức Diêu Trì Kim Mẫu, Thánh tịnh Kim Thành Long, Tý thời đêm Mười Bảy rạng Mười Tám tháng Hai, Quý Sửu (22-03-1973)

6Đức Quan Thế Âm, Chơn Lý Đàn (Vạn Quốc Tự), Tuất thời Hai mươi Tám tháng Bảy, Giáp Dần (14-09-1974)

7 Đức Quan Âm Bồ Tát, Thánh thất Bình Hòa, Tuất thời, Rằm tháng Chín, Đinh Mùi (18-10-1967)

Tuesday, December 7, 2010

BỤI ĐẠO

Người ta thường nói “bụi đời” là cách mà con người sống bất cần vào một hệ thống niềm tin nào ngoại trừ nguyên tắc mọi thứ theo ý muốn tự phát. Cái tính “bụi” giúp mọi người có thể liên tưởng đến cuộc hành trình vất vưởng không mục đích và vô cùng bất định. Với những con người như chúng ta thì,đã nhiều lần, “bụi đạo” là từ mô tả cuộc đời hành đạo của chúng ta vừa giữ tinh thần của một tập thể, theo đức tin đang dần lớn lên; trong khi đó vừa giữ cái “chất bụi”. Lý lẽ thế thì nhiều khi không làm mọi người hiểu ra được. Vậy thì hôm nay, câu chuyện sẽ phần nào mang “bụi” đến cho độc giả, nếu bài viết đủ sức làm điều đó.

Ba (03) giờ sáng, tài xế của chuyến “bụi” thức dậy để chuẩn bị cho hành trình sắp tới trong ngày mùng 1 tháng mười một năm Canh Dần. Bốn (04) giờ mười lăm phút (15), phái đoàn bốn người bắt đầu xuất phát từ CQ. Hành trình tiếp theo là cứ theo quốc lộ 50 mà về Gò Công. Đây là con đường “gây khiếp sợ” bởi kinh nghiệm của lần đi trước đây cách độ vài tuần thôi. Cái nổi e sợ nổi lên khi nhắc đến nó cho chuyến đi lần này. Chả là lần trước cũng trên con quốc lộ 50 có đoạn ngập nước cả 2 cây số. Nói ngập chưa đủ sợ, mà phải nói là ngập đến nữa bánh xe gắn máy thông thường và kéo dài tưởng chừng không kết thúc. Hôm đó, chiếc xe hơi chở phái đoàn đi hành đạo đã gần như trở thành một chiếc xuồng hiện đại nhất trên sông nội ô. Cứ ý như là đang sống ở Vience vậy!

Trở lại chuyến đi lần này, đạo tỷ Nhựt là hoa tiêu dẫn đường cho chúng tôi, nhưng không có lựa chọn nào khác ngoài cách trở lại con đường đầy đe dọa đó. Tuy vậy, vẫn có giải pháp phòng hờ là nếu thấy nó ngập quá mức chịu đựng, thì chuyển hướng quốc lộ 1A rồi...mò mẫm sau! Mọi người đồng tình như thế. Có lẽ sự đồng thuận nhanh chóng và quyết tâm như thế nên khi đến đoạn đường đầy ký ức đó, nước chỉ lấp xấp mới lên có một phần đường. Thiệt ra có thể do chúng tôi đi quá sớm nên nước chưa kịp lên để biến đường thành sông. Nếu đi trể hơn tí chắc sẽ có phim về chuyến vượt sông trong đô thị, vì lần này không đi bằng xe hơi và bằng xe gắn máy!

Như vậy, khó khăn thứ nhất đã vượt qua không lận đận cho lắm. Cả chuyến hành trình cả đi và về lần này cũng theo cái “duyên lành” này mà trôi chảy, hanh thông đến bất ngờ. Khi phái đoàn vừa đến phà Mỹ Lợi, thì phà cùng vừa mở của cho khách xuống phà. Chúng tôi chỉ mất có bốn mươi lăm (45) giây để ngừng xe trong bến đợi! Khi đến phà Vàm Giồng để sang Tân Thới, chúng tôi cũng mất một (01) phút hai mươi lăm (25) giây để xuống phà sang sông. Khi đi là thế, mà khi về cũng chẳng khác hơn. Phà Bình Ninh, thậm chí phà như đang đợi chúng tôi xuống rồi mới bắt đầu rời bến để sang sông! Tất cả như đã “dọn” sẳn chỉ đợi chúng tôi đến là “hành động” mà thôi... Chưa bao giờ, từ đầu năm đến nay chúng tôi lại có chuyến đi hanh thông đến mức như vầy. Chắc nhờ lời cầu nguyện đêm hôm trước khi cúng thời Tý!

Nếu chỉ có sự suôn sẻ như thế thì đâu còn bụi nhỉ? Ấy vậy mà vẫn bụi đầy mình theo đúng nghĩa đen của từ đó đấy! Tạm lấy mốc từ Vĩnh Nguyên Tự trở đi, chúng tôi di chuyển trong bụi. Đó, nhiêu đó đủ thấy chúng tôi “bụi trong hành đạo rồi”. Đường thì không biết bao nhiêu loại ổ nằm trên nó. Ổ gà có, ổ voi có mà ổ khủng long cũng không thiếu tí nào cả! Chúng xuất hiện khắp nơi trên mặt đường, trái có, phải có, giữ đường cũng có! Hết đoạn nuôi gà, voi và khủng long thời hiện đại, thì lại đến đoạn đường trãi đá nhỏ. Đến những đoạn ấy thì sương với bụi tuy hai mà một, bụi cùng sương thấy một nhưng chắc là hai! Nhất là khi trời đã hừng sáng thì cảnh “mê hồn” “huyền ảo” lung linh này sẽ rõ mồn một qua lớp bụi sương mờ mịt bất phân đôi! Hai bên là sương còn lất lây trên ruộng lúa. Trên đường thì bụi cũng mờ ảo vất vưởng khắp nơi. Tứ phía cứ như là cảnh tiên bồng mây khói...nếu nhìn từ xa. Còn vào trong đó được rồi mới biết là cảnh ảo không sai một mảy hào! Vì sao thế? Ở cảnh tiên, sống giữa mây phiêu bồng, sương phiêu lãng, gió phiêu du cũng không ngứa mũi, rát mắt, nặng mặt...vì bụi như thế này! Xong đoạn bụi trắng khu Gò Công, chúng tôi tiếp thêm bụi đỏ khu Tân Thới. Chỉ cần nhìn nhau chúng tôi đã thấy mình mặc áo khác rồi! Mấy chiếc xe cũng được nhuộm màu trần tục nhìn cũng lạ luôn! Mỗi chuyển động của thân thể như bước đi, vẫy tay cũng làm cho bụi, chính xác là bụi “tỏa” ra ngoài thân như “vầng sáng” mờ ảo rất huyền vi dưới ánh nắng mặt trời! Đó, bụi đạo là thế đó!

Đến được nơi cần đến, phủ bụi cho bớt bụi, phần còn lại là tâm tình đồng đạo lâu năm chưa gặp, ba con lâu ngày chưa thăm! Tiếp đến là tham dự buổi lễ chính: Lễ Kỷ Niệm Thường Niên và Ra Mắt Ban Cai Quản nhiệm kỳ 2010 – 2013. Buổi lễ diễn ra chưa trọn ba mươi (30) phút. Nhanh đến thế là cùng! Nội dung buổi lễ quá gọn, chỉ vỏn vẹn việc giới thiệu tiểu sự ngôi thánh tịnh Vĩnh Thanh Quan, đúc kết hành đạo năm qua và cuối cùng Ban Cai Quản nhiệm kỳ mới ra mắt nhân sanh bao gồm các đại diện thánh thất, thánh tịnh khu vực lân cận.

Thánh tịnh Vĩnh Thanh Quang đã trãi qua hơn 35 năm xây dựng và phát triển. Nghe nói nếu so với trước đây, ngôi thánh tịnh ngày nay đã thay đổi rất nhiều. Ngày xưa chỉ là đất nện làm nền ngôi Chánh Điện, thì nay đã lát gạch rất sáng. Ngôi thờ tự trong rất khang trang, sạch sẽ trên một diện tích vừa phải. Lần này về, có thêm một ao sen phía trước thánh tịnh nên cảnh ở đây cũng có thêm phần thánh thiện. Tuy vậy, đó cũng chỉ là hình thức đơn sơ, dị giản của cuộc đời. Cảnh vật đổi dời theo năm tháng. Chỉ thực lòng mong muốn cảm nhận được tâm đạo của đạo hữu tinh tấn theo tháng năm. Đó mới chính là diệu dụng của thánh thất hay tịnh trường. Đó mới chính là cảnh thật non bồng tại cõi trần ai...nhiều bụi!

Do kết thúc lễ sớm nên chúng tôi có thời gian nghỉ ngơi và trò chuyện đôi chút với quý đạo hữu. Không có nhiều chuyện về tâm đạo, hành đạo. Nhiều câu chuyện về cuộc sống, về xã hội được nối tiếp nhau giữa các bạn đạo chắc lâu rồi không gặp lại nhau! Phái đoàn ra về sớm hơn so với “tưởng tượng”! Thế cũng tốt vì chiều hôm đó là buổi học thánh giáo của liên vụ.

Mười một (11) giờ mười lăm (15) ra về. Lần này, quý huynh tỷ tại thánh tịnh chỉ một con đường khác ngắn hơn, dễ đi hơn và nhất là ít...bụi hơn rất nhiều. Thế là hai chiếc xe gắn máy ngập bụi hồng trần bắt đầu di chuyển trên lộ trình mới. Đúng là ít bụi hơn rất nhiều so với hồi đi. Nhưng vốn dĩ gọi là “trần” thì chổ nào cũng có “bụi” cả, dù ít hay nhiều. Dò đường đến cầu Chợ Gạo, mò được ra đến cổng chào vào thành phố Mỹ Tho, lần hồi đến quốc lộ 1A chúng tôi hoàn toàn nhận nét quen thuộc của nó và bắt đầu thẳng tiến hồi gia. Con đường này giúp phái đoàn tiết kiệm hơn một (01) giờ đồng hồ di chuyển. Nếu sáng sớm trên lộ trình đệ nhất bụi phái đoàn mất 4 tiếng để đến nơi, thì bây giờ chỉ mất gần 3 tiếng để về đến chổ. Tuyệt!

Tin chắc bây giờ quý độc giả đã hiểu cái gọi là “bụi đạo” rồi. Trên dặm trường bụi đạo đã và sẽ có nhiều tình cảm trong hành đạo. Nhiều bài học sẽ có được mà không bài giảng nào có thể viết ra được. Đúng là cái lý nhất tịnh nhất động tức đạo. Trong việc tu học thì thanh tịnh học tại lớp là “nhất tịnh” kết hợp với hiểu biết do liên giao hành đạo, tạm gọi là “nhất động”, sẽ lam cái đạo tâm lớn hơn thêm tí!

Xe dừng lại tại CQ, một đạo tỷ nói hôm nay đi hành đạo rất vui. Ngộ hén, trong khi thanh niên thấy bụi, quý đạo tỷ thấy vui. Khác nhau hén! Dẫu cũng vần “ui” nhưng khác hẳn nhau về chất. Một bên là thanh trắc với dấu nặng, “ụi”, mang nội dung nặng nề, vướng bận. Trong khi một bên là thanh bằng, âm ngang, “ui” nhẹ nhàng thoát ra đám bụi trần bám đầy trên thân, áo, mặt mũi, mắt tai!


Chúng tôi đã đi như thế vậy, về như thế vậy và kết thúc như thế vậy trong bụi và vui. Tâm đạo chỉ là thế, chắc vậy! Nó là vậy cho dù trãi qua những chuyện vui hay chưa vui. Vì một lẽ nữa là hãy còn nhiều dịp trong những ngày sắp tới.


Viết cho Tiền Giang, 06/12/2010

Thanh Long


Hình 1: Thánh tịnh Vĩnh Thanh Quang

Hình 2: Phái đoàn Cơ Quan đến tham dự lễ

Hình ảnh liên quan được đăng tải trên trang: http://lovncaodai.multiply.com/photos/album/35


Thursday, December 2, 2010

LỖI NHỊP


Khi lời ca không theo kịp nhịp điệu hoặc ngược lại, ta có hiện tượng lỗi nhịp. Khi tư tưởng không làm kim chỉ nam cho hành động, hoặc ngược lại hành động không chứng minh cho tư tưởng ta có sự lỗi nhịp. Còn khi mong muốn không gặp được hiện thực, hoặc ngược lại hiện thực là một hiện thực khác cái mong muốn ta có việc lỗi nhịp. Và hai lần lắng nghe vừa qua, ta có những việc lỗi nhịp chưa được hiểu thấu đáo, tường tận.

1.

Một cách chung chung, hai thế hệ của một dòng chảy nhân sinh đã không gặp nhau. Cả hai có lẽ đã không đến cùng nơi dù đang ở cùng chổ, không ở chung cùng thời dù đang chia sẻ cùng những khoảnh khắc ở bên nhau. Một bên muốn nghe, và một bên chưa chuẩn bị nói. Một bên trình bày tâm tư, còn một bên chưa thật thấu hiểu cái gọi là tâm tư. Tâm tư là cái cần được lắng nghe hơn là được phân tích, dù rằng sự phân tích là cần thiết để đi đến hành động cụ thể.

2.

Một cách chi tiết, thế hệ sau đã tạo cơ hội cho sự lỗi nhịp khi bày tỏ những ao ước bằng câu chữ, khái niệm gây nhiều hiểu lầm. Đáng tiếc là nó đã không được diễn dịch theo tâm tư, mà ngược lại nó được phân tích lướt qua về mặt ngữ nghĩa. Đó lại sự lỗi nhịp của bên kia! Khao khát luôn là những ước muốn mạnh mẽ vượt qua sự cho phép của nguyên tắc. Khao khát luôn tìm thấy điểm dừng trên con đường hành động vì động lực mạnh mẽ đó. Người ta không ngăn chặn khao khát, người ta làm nó nhận ra cái hiện thực từ đó chuyển hóa toàn bộ sức mạnh vốn có của nó vào hiện thực đó!

3.

Một động cơ của một thiết bị phải là thống nhất, nhất quán và có định hướng. Vì nó tạo năng lượng cho cả cơ cấu của thiết bị đó vận hành theo sự định sẵn trước đó của cơ cấu đó. Thế nên nếu cái động cơ đó lại thiếu nhớt để bôi trơn, thiếu xăng cho sức sống, thiếu linh hoạt cho sinh khí thì là một khó khăn khác cho cả cấu trúc tự thân. Sự không đồng bộ và cả sự thiếu kỹ năng cơ bản cũng đã tạo ra cái sự lỗi nhịp, mà xét cho cùng cái lý vô thường âu đó cũng là thế thời mà không sao thay đổi được! Giờ đây, mới có dịp hiểu ra lời dạy về chân lý: chân lý tự nó phủ nhận chân lý!

4.

Thật khó khi thế hệ sau được nhắc, được lắng nghe những vấn đề mà ở vị trí hiện tại thực tế nhất của họ lại chẳng thiệt liên quan gì. Tất cả cũng chỉ mới ở bước đầu tiên, thế mà các ý kiến lại vất vưởng ở nơi cao xa của vài chục năm tới! Tuy vậy sự trở về hiện thực trong tầm tay cũng là khó khăn bởi lẽ mọi suy nghĩ của kẻ phía sau còn quá sức mới, mới như cái quẻ Truân của Dịch lý vậy! Ở cái vị trí đó, lý thuyết và hành động, tư tưởng và động năng, ước mơ và hiện thực chưa tách rời nhau để rõ ràng thành ra phương châm và bước tiến. Vì thế, mà nên cái lỗi nhịp này.

5.

Kinh nghiệm và rút kinh nghiệm là cái nguyên nhân gần xa của những sự lỗi nhịp. Mà thực ra, con người làm gì có cơ hội để rút kinh nghiệm trên dòng đời đổi thay không lặp lại như thế này! Thế mà nó lại là cơ sở của mọi phán đoán bằng một thể loại ngôn ngữ đanh như thép, cứng như kim cương! Mọi diễn dịch nên ở vị trí trung dung của nó để tạo ra khả năng cũng như động năng hướng chân lý của tư tưởng. Dòng đời này rồi sẽ trôi đi mà sức trôi của nó đủ mạnh để bào mòn tất cả loại kim cương hay thép không gỉ nào từng có! Kinh nghiệm vẫn chỉ là một em bé lăn xăng trên trường tư tưởng.


Xét cho cùng lý thì lỗi nhịp là một hiện tượng rất đỗi bình thường của trần gian này. Con người chúng ta phải nhận ra rằng cuộc sống không là nơi hoàn hảo, nên chi không phải điều chi cũng là hoàn hảo, mà lỗi nhịp chỉ là một hiện tượng bất toàn trong vạn muôn sự bất toàn cũng như trong một bản chất bất toàn của thế sự. Cái duy nhất hoàn hảo, toàn mỹ là tấm lòng của con người trong cái thế sự bất toàn này. Và chỉ những tấm lòng nhiệt thành phấn đấu không ngừng, bước tới đều đặn để đem đến những sự hoàn hảo nhỏ nhoi trong mỗi khoảnh khắc thời gian, mỗi vị trí không gian. Vậy nên, sống trong thế giới chưa hoàn thiện, thì một sự chưa hoàn thiện không phải là chuyện kinh thiên động địa. Cái động địa kinh thiên chính là nổ lực làm cho sự bất toàn trở nên toàn mỹ hơn!

Thế thì còn gì khác hơn việc nhìn ngắm, trau chuốt những bất toàn nếu không là tận tâm tìm kiếm và thực hành cái lý Thương Yêu mà ngay từ thuở đầu tiên của người học đạo đã là căn bản, là nền tảng của mọi hành vi và suy nghĩ!

Hãy tìm kiếm cơ hội cho sự đồng hiện hữu trong cùng không gian, thời gian. Hãy tìm kiếm dịp nào đó cho mỗi sẻ chia và tâm sự trên dòng đời ngắn ngủi kiếp nhân sinh. Hãy tìm cách tiếp thêm sức mạnh của nhau trong sứ mạng cao cả của một dân tộc, một nhân loại chứ chẳng riêng gì một tổ chức nhỏ bé quá đỗi này.

Bầu trời cao xanh vẫn luôn là biểu trưng của ngày mới; là nơi rộng lớn cho những cánh chim tung bay, những vầng mây trôi nổi triền miên mà vẫn không sao ra ngoài nơi đó được! Cầu nguyện cho bầu trời xanh ấy sẽ sớm là hiện thực cho thế hệ sau, và là hình ảnh của thế hệ đã qua.


Sài Gòn, tháng 12 năm 2010

Thanh Long