Friday, April 8, 2011

HÌNH ẢNH CON NGƯỜI TẠI THẾ GIAN

Hay suy nghiệm về con người như một toàn thể


Kiến giải về Nhân Sinh từ nguyên lý âm dương

Nguyên lý âm dương cho rằng mỗi một hiện tượng hay sự vật hiện hữu trong vũ trụ đều là sự kết hợp của hai cơ chế vận động khác biệt nhưng thống nhất với nhau. Hai cơ chế vận động đó được biểu trưng bởi khái niệm “âm” và “dương”. Mối liên hệ âm dương là mối liên hệ có nghĩa theo hàng ngang, và có tương quan theo hàng dọc.


Dương

Âm

Nam

Nữ

Mạnh

Yếu

Tốt

Xấu

Tích cực

Tiêu cực

Trong bảng trên, ta có mối liên hệ về giới có nghĩa Nam – Nữ, liên hệ về tình trạng thể lực có nghĩa Mạnh – Yếu, ….Đó là những mối quan hệ hàng ngang có nghĩa. Tuy nhiên, mối tương quan Nam thì phải có tính Tốt, Mạnh, Tích cực là mối tương quan không thể xác định rõ ràng. Nhưng nếu nói Dương là nói đến Mạnh, Tốt, Tích cực và cả Nam nữa thì đó hoàn toàn đúng.

Điều này có nghĩa rằng Dương là một phạm trù có tính phổ quát bao hàm những thành phần có tính chất “dương” trong mối quan hệ có nghĩa với Âm, những thành phần có tính chất “âm”. Trong khi đó, các thành phần của Dương - Âm chỉ có quan hệ hàng ngang với nhau mà thôi.

Ngoài ra, Dương và Âm còn có vai trò như hai năng lực hoạt động đối nghịch nhau tạo nên sự tồn tại và phát triển của một thực thể. Ở đây, vũ trụ với tư cách là một thực thể phổ quát là sự thống nhất của hai nguyên lực Dương và Âm này. Thực thể phổ quát này có thể là vũ trụ thiên nhiên, cơ thể của con người cũng là một vũ trụ tự nhiên,... hay bất cứ một tồn tại nào có sự phát triển thì đều do sự kết hợp của Dương và Âm.

Từ ý nghĩa đó, xem xét khái niệm Nhân sinh như là một thực thể thống nhất của hai nguyên lực cơ bản: Con Người Tích Cực và Con Người Tiêu Cực. Trong đó, Con Người Tích Cực là thành phần Dương và Con Người Tiêu Cực là thành phần Âm.


Con Người Tích Cực – Dương

Con Người Tiêu Cực - Âm

Nguyên Nhân

Hóa Nhân

Ý Thức Tiến Hóa

Vô thức Tiến Hóa

Đạo lý là phương châm

Lợi ích nhất thời là phương châm

Giác ngộ đạo lý là giá trị nền tảng

Duy lý thiên kiến là giá trị nền

Con Người Tích Cực là tập hợp tuyệt đại đa số các cá thể người chấp nhận và thực hiện công cuộc tiến hóa tâm linh như là một định mệnh không thể không có nơi thế gian. Tùy vào mỗi thời đại mà định mệnh này có thể được hiểu khác nhau, được trình bày khác nhau; nhưng không thể chỉ dựa trên lý trí và kinh nghiệm thuần túy của con người. Định mệnh là sự thức tỉnh và hòa hợp giữa con người trí năng và đạo lý toàn năng. Chỉ khi có sự hòa hợp này mới tạo nên định mệnh của nhân sinh như một hình thể có thể nhận thức được. Và chủ thể nhận thức của định mệnh này chính là Con Người Tích Cực.

Con Người Tiêu Cực là một tập hợp tuyệt đại đa số cá thể con người chấp nhận và thực hiện cuộc sinh tồn của mình như một dòng chảy hạn hữu của thời gian. Họ cho đó là số phận của nhân sinh, hạn hữu tất định và không nhận ra gì hơn ngoài những gì kinh nghiệm đã có và đã mang lại cho họ.

Lằn ranh mong manh duy nhất giữa hai hình ảnh con người này là tâm thức về định mệnh. Sự chuyển hóa qua lại giữa hai đối tượng Con Người Tích Cực và Con Người Tiêu Cực có thể chỉ là một bước dời chân nào đó trong tâm thức, dù là vô tình hay hữu ý.

Do đó, con người là đơn vị cơ bản của nhân sinh toàn thể. Hai mặt của con người là hai động lực của sự vận động cho thực thể nhân sinh. Đó chính là con người trong mối liên hệ tất yếu với xã hội của nó, phản ánh được bộ mặt xã hội của nó, và được xã hội phản ánh nó trong đời sống của mình.



Mối quan hệ giữa Con Người và Nhân Sinh

Nhân sinh chính là con người trong hoạt động của nó. Con người lại là một lớp cắt của nhân sinh.

Ở đây, chúng ta sẽ không xem xét con người tâm lý tức là con người với khả năng ứng đối với ngoại cảnh và chính mình. Chúng ta cũng không xem xét con người như là một thực thể có căn nguyên cùng vũ trụ. Chúng ta không xem xét con người cá thể với toàn bộ đời sống cá biệt trong hoàn cảnh rộng lớn, hoàn cảnh của xã hội. Vậy nên chúng ta chỉ xét đến con người có quan niệm trên bình diện liên quan cùng xã hội, cộng đồng.

Chúng ta xem xét con người phổ quát, tức con người hữu quan, hữu cảm; con người phản ánh định mệnh hoặc chấp nhận số phận của mình. Đó là con người xã hội hay ít ra đó là con người được phản ánh bởi đặc tính xã hội mà nó tồn tại cùng. Đó là một con người phổ quát như một hình ảnh nhân sinh; con người như một năng lực đặc trưng của nhân sinh, vốn chỉ là khái niệm nói đến đời sống của con người. Nếu chẳng có con người trong mối liên hệ phổ quát này thì nhân sinh là khái niệm không có nghĩa.

...Sự sống của con người hiện tình ẩn khúc nhiều bộ mặt sinh hoạt khác nhau, chẳng đồng đều và biểu hiện ra nhiều sắc thái từ mức ôn hòa rồi phát sinh đến sự xung động, phản ứng do bản thể tự tồn chủ quan ích kỷ sai biệt trái với lẽ Đạo, rồi làm sao sự sinh tồn của xã hội lấy môi trường đạo đức khai thác cho cá nhân tiến tới hạnh phúc bảo vệ giá trị con người?1

Sự khác biệt của của từng cá thể người không làm nên giá trị con người nói chung. Do đó, con người phổ quát còn có thể hiểu là giá trị con người nói chung. Do đó, chúng ta chỉ có thể tiếp cận gương mặt của nhân sinh thông qua gương mặt đại diện cho nó, những cảm quan chung nhất của con người phổ quát.

Văn hóa, nghệ thuật, đạo đức, tôn giáo, triết lý,... là những gương mặt cụ thể được nuôi dưỡng bởi con người phổ quát. Cũng giống như việc để hiểu văn hóa Việt Nam, ta cần nghiên cứu con người Việt Nam như một thực thể phổ quát trong cái nhìn chuyên biệt về văn hóa. Nếu cụ thể hơn, ta sẽ phải nghiên cứu con người cá thể, nhưng kể cả chữ “cá thể” ở đây cũng không nói đến một cá nhân Việt Nam cụ thể nào có một cái tên xác định, tuổi xác định, vóc dáng xác định. Không có cá nhân đại diện cho nền văn hóa của một dân tộc. Nói như thế chỉ để chỉ rõ đối tượng con người mà chúng ta thực sự nói đến trong bài viết này, con người như thực thể nhân sinh.

Nhân sinh là hình ảnh con người tại thế gian

Khái niệm “con người tại thế gian” có lẽ làm rõ hơn về nhân sinh. Đó chính là cuộc sống toàn thể của mọi khác biệt về màu da, sắc tóc, ngôn ngữ,.... Không có con người đơn lẻ trong thế gian, vốn là nơi của tập hợp người và vạn hữu trong nhận thức của người. Và con người trong tính toàn thể của nó, hay thế gian là hệ quả của định luật sinh hóa2.

Sự hiện diện của nhơn sanh tại cõi thế gian này không phải là ngẫu nhiên hay vô cớ, mà nó đã nằm trong cái định luật, trong đức háo sanh của Thượng Đế3.

Con người và sự phát triển của nó để định hình thành cõi thế gian là một định luật. Các ngành khoa học đã làm động tác chia cắt cái định luật của vũ trụ theo từng mảng riêng có nghĩa để nhìn nhận những yếu tố tất yếu của nhân sinh theo cách riêng của chúng. Tuy sự phát triển đa dạng của khoa học, khiến con người phổ quát bị chia cắt thành nhiều mảnh, nhiều phần, thậm chí nhiều thực thể người theo từng cái nhìn của ngành khoa học; nhưng con người vẫn thực sự có liên quan mật thiết đến cái định luật nguyên sơ từ ban đầu. Nó được phát biểu giản đơn trong đức háo sanh của Thượng Đế. Nhân sinh là nguyên nhân của Thượng Đế.

Có thể một lúc nào đó, hoặc thực sự luôn là như thế, con người đã không nhận ra hoặc quá say mê trong ảo tưởng làm chủ cuộc sống, làm chủ cõi thế gian bằng lý trí thuần túy nên phủ nhận sợi dây kết nối nhân quả của mình với cái định luật ban đầu. Nên nhân sinh là bất định, bất toàn trên những gì mà nó đã xây nên.

Người sanh tại cõi thế như những lữ hành4 đang đi trên đường thiên lý5.

Cuộc sống của con người, xã hội do con người tạo dựng nên là một con đường dài không chổ kết thúc. Đó cũng là một luật định cho số phận của con người và nơi mà nó tạo ra. Con người sẽ không thể dừng lại trên dòng thiên lý. Bởi lẽ, với số phận là một kẻ tha phương, liệu có thể dừng chân nơi nào được chăng? Bởi lẽ, với số phận là kẻ bộ hành nơi đất khách, liệu có một chổ an trú thân bền vững hay không? Không có gì là ổn định lâu dài. Không có gì tất định không thể đổi thay đối với con người tại cõi thế, đối với nhân sinh. Con người còn bất định hơn nữa trong chuỗi thời gian vô hạn định, trong khoảng không gian vô phương hướng. Và vì thế con người sẽ đến với bất toàn hơn nữa trên suốt chặng đường dài của mình. Nhân sinh là tiến trình bất định, bất toàn, và bất ổn vì ý thức toan tính rời xa cái định luật nguyên sơ.

Suốt chuỗi luân hồi trên đường tiến hóa, những chơn linh ví như những khách lữ hành đã trải qua không biết bao nhiêu trạm dừng chân đổi bến6.

Luân hồi sẽ dẫn dắt nhân sinh lần hồi đi trên hành trình miên viễn đa chiều kích. Nó sẽ không còn là một đường thẳng tắp xa xăm, nhưng may ra vẫn còn thấy lối. Nó sẽ là con đường quanh co rối rắm qua nhiều trạm dừng chân đổi bến, để thay dạng đổi hình, thay tên đổi họ. Trên con đường đó, chơn linh sẽ phải chịu phủ che dầy đặc bởi những giả tướng, bởi sự khác biệt với chính mình. Con người, không chỉ là sự xa quê hương mà còn hơn thế nữa, là sự xa rời chính mình trên hành trình dài hơn hạn hữu thông thường của cảm quan và tri thức. Nhân sinh là một tiến trình lìa xa chính mình để đi trong vô hạn.

Đến đây, ta chỉ thấy một nhân sinh với toàn bộ kết cục bi thảm có dũng khí trong số phận do chính nó định đoạt. Hay giống như những cái vẫy đạp đưa mình ra đại dương thay vì vào bờ. Chỉ thế thôi thì chẳng ra hình ảnh nhân sinh toàn diện.

Như đã nói, nhân sinh toàn diện được tạo hình bởi những cặp lực và phản lực cơ bản: thức tỉnh và chìm đắm; ý thức và vô thức,.... Mà đại diện cho chúng chính là con người tích cực và con người tiêu cực. Nếu con người Tiêu Cực làm nên sự chìm đắm trong bất định của nhân sinh, thì Con Người Tích Cực lại làm nên sự thức tỉnh trong sứ mạng của nhân sinh.

Đạo là Thiên, là tâm, là con người, nên chi con người phải là con người đạo đức.7

Con người chỉ khi vẫn giữ mối dây liên hệ với nguồn cội thiêng liêng của mình mới thấy được sự sống tích cực mà tham gia vào nó như một chủ thể của cuộc sống đích thực. Chỉ khi con người vẫn tin và xác tín cái định luật muôn thời là sợi dây liên hệ đó để làm chuẩn mực cho mọi hành vi và suy tưởng, con người sẽ sớm nhận ra trọng trách của mình. Trọng trách là con người đạo đức đúng nghĩa với bản chất tự nhiên như nhiên của nó. Con người phải lập đức nhờ vào sự học và hành theo đạo lý muôn thời. Đó là điều hiển nhiên đã bị phế bỏ trong cuộc sống thực dụng, khoa học chủ nghĩa, thuần lý nhưng lại thiếu hẳn một cái tâm đạo. Chính đây là lúc mà Con Người Tích Cực thị hiện như một năng lượng vận động có ý hướng, khiến nhân sinh toàn thể được vận động theo một chiều hướng thượng thay vì thuận theo chiều của luân hồi và tha phương trong thế giới nhân sinh.

Con người đạo đức là hạt nhân của NHÂN BẢN, và Con Người Tích Cực chính là nguồn năng lượng của NHÂN BẢN. Chỉ khi có con người đạo đức thì nhân sinh mới có khả năng phản tư về chính mình qua chiếc gương của đạo lý. Chỉ khi có con người đạo đức, nhân sinh mới bắt đầu hành trình trở về với mình.

Bến khởi thủy đang chờ lữ khách,

Giác linh tâm rửa sạch bụi trần;

Sông Hà tắm gội pháp thân,

Mê hay tỉnh hỡi cố nhân phương nào?8



Nói tóm lại, con người là đại diện của nhân sinh. Suy nghĩ về nhân sinh, tức là suy nghĩ về con người trong sự vận động của nó. Sự vận động của con người trong cõi thế gian làm nên hình ảnh nhân sinh. Sự vận động đó nhờ vào tâm thức về định mệnh (sứ mạng) của con người trong cuộc thế. Lằn ranh tâm thức này phân nhân sinh làm hai mặt, hai đối tượng căn bản làm thành mối quan hệ về vận động. Đó là Con Người Tích Cực và Con Người Tiêu Cực. Trong đó, Con Người Tích Cực làm chức năng bảo tồn sứ mạng trong nhân sinh; đem lại một khả tính cho hành trình trở về với bản chất nguyên sơ của con người. Nhờ đó, tính bất định của nhân sinh cũng chỉ là một tạm thời. Nhờ đó tính tất yếu của con đường trở về thành ra là rõ ràng trong nhận thức của con người.


Thanh Long

3/2011

**********************************************

1Đời Đạo Triết Luận, quyển Nhứt, 1966, trang 46.

2“Định luật sinh hóa” nếu giải thích theo Dịch lý thì đó chính là sự thể hiện của tám đức Nguyên, Hanh, Lợi và Trinh của hai năng lực tiên thiên Kiền – Khôn.

3Đức Quan Âm Bồ Tát, Vĩnh Nguyên Tự, Ngọ thời mùng Ba tháng Giêng, Giáp Dần (25-01-1974)

4Lữ hành: 旅 行 lữ có nghĩa là người ở trọ, hành có nghĩa là đi. Lữ hành có nghĩa là người đi xa, kẻ ở trọ. Tương tự, lữ khách 旅 客 cũng sẽ có nghĩa là người đi làm khách nơi xứ xa, người xa xứ, kẻ ở trọ. Trong ngữ cảnh liên quan đến thân phận con người tại thế gian tôi hiểu hai khái niệm này đều chỉ đến nhân sinh là con người rời xa căn nguyên, ở trọ nơi cõi tạm. Nên lữ hành hay lữ khách đều được dịch sang tiếng Anh là the earth lodger.

5Đức An Hòa Thánh Nữ, CQ.PTGL, Tuất thời, Mười Bốn tháng Năm, Quý Sửu (14-06-1973)

6Đức Bác Nhã Thiền Sư, Minh Lý Thánh Hội, Tuất thời, mùng Bảy tháng Giêng, Quý Sửu (09-02-1973)

7Đức Lý Giáo Tông, Chí Thiện Đàn (Minh Đức Nho Giáo) Vĩnh Bình, Tý thời, Hai Mươi Bảy tháng Tám, Nhâm Tý (4-10-1972)

8Đức Lê Văn Duyệt Đại Tiên, CQPTGL, Tuất thời, Rằm tháng Ba, Giáp Dần (07-04-1974)

4877

Đây không phải là số điện thoại khẩn cấp. Đây cũng không là con số có giá trị hữu dụng để dùng được như chính những con số đang là. Đây là lý của số! Tức là mượn số để bộc bạch về cái lý đầu năm Tân Mão.

Bốn là gì? Trong bảng danh sách phân công các phái đoàn đi chúc tết các thánh sở anh em trong tôn giáo Cao Đài, có một nhóm được đánh số 4. Mà 4 là số tượng cho sự cân đối của không gian. Rằng vì trời có 4 phương mà!

Tám là chi? Tám ấy là cơ vận động của vũ trụ...Đừng cho rằng đó là suy tưởng thái quá! Bát Quái nếu không là sự cơ nguyên vận động của vũ trụ thì còn có nghĩa gì khác chăng? Do đó, nói đến số tám phải nói đến sự vận động không ngừng...Tuy nhiên, số 8 ở đây còn có nghĩa là số lượng nhân sự của phái đoàn ngoại giao số 4. Vậy có 8 người trong nhóm số 4. Suy ra lý có nghĩa là có một sự vận động trong khoảng không gian thanh bình của những ngày đầu năm Tân Mão!

Bảy tượng trưng cho lý gì? Trước hết 7 là đơn vị số lượng dùng để cân đong đo đếm. Ở đây là 7 nơi mà phái đoàn số 4 gồm 8 người đã viếng thăm và chúc Tết đầu năm. Nghĩ cho kỹ thì chẳng nên thêm vào lý gì cho rối rắm thêm cái đoạn này.

Vậy bảy nữa có lý chăng? Đương nhiên phải có chứ. Cái số 7 đầu không có là nhường cho cái 7 sau đấy thôi. Bảy trong âm Hán Việt là thất. Cái lý chổ này của số 7 không phải là số lượng, hay số đếm chi hết. Nó có nghĩa là thất. Mà thất ở đây là thánh thất chứ không phải có nghĩa là nhà như thông thường ai cũng biết. Mà thánh thất là danh từ chung để gọi các thánh sở Cao Đài. Có lẽ một vài người sẽ hỏi vậy đến thánh tịnh thì có tính không? Chắc chắn là có? Nếu có thì gọi là chi? Một vài câu hỏi cắc cớ sẽ được nêu ra như thế! Không sao, có thế mới có suy nghĩ cho tường tận. “thánh thất” như là một danh từ chung là dùng để chỉ phần lớn thánh sở, ngôi thờ tự của người Cao Đài. Còn như hai khái niệm “thánh thất”, “thánh tịnh” là 2 danh từ chung chức năng dùng để phân biệt rõ chức năng của từng ngôi thờ tự, thánh sở đó vậy! Nếu đã nói đến danh từ chung chức năng thì phải nói đến “điện thờ Phật Mẫu” và “Tòa thánh” nữa thì chắc là đủ. Tản mạn về Tiếng Việt thực hành trong Cao Đài giáo như thế là tạm đủ.

Như vậy, con số 4877 bình thường đến tầm thường kia bây giờ có một cái lý vô cùng khác thường. Sự khác thường nằm trong ý nghĩa như sau: trong những ngày đầu năm thanh bình, thanh tao và êm đềm cả có 8 nhân tố vận động liên tục trong cái không gian đằm thắm ấy để kết nối tinh thần liên giao, sự thông suốt của tình thân đến 7 thánh thất (7) Cao Đài. Đó là ý nghĩa cao cả là lý của số 4877!

Đến đó cũng chưa hết lý. Vẫn còn một cái lý ẩn tàng mà chỉ có người trong cuộc mới hiểu nổi và nhận ra mà thôi. Nghe nói những năm trước đây, các chuyến của nhóm số 4 này chỉ có phần “âm”, ý là chỉ có giới nữ tham dự mà thôi. Riêng năm nay, đã xuất hiện một điểm “dương” tức là có nam giới tham gia. Tuy là “cô dương” nhưng đã đánh dấu một sự đổi mới, mạnh mẽ, tươi sáng, thông suốt... nói chung là vạn sự phát khởi, đắc cát! Đó là lý của dương chứ không phải tại có nam mà nói thế, mong mọi người hiểu thấu cho ý này! Vậy ra năm ngoái là Canh, năm nay là Tân. Cộng hai năm là Canh Tân, nên đạo sự có nhiều khác lạ, khác biệt và có thể khác xa với mọi năm khác trước đó.

Như vậy, con số 4877 đã được hình thành và mang mặc vào nó những ý nghĩa đó vào ngày 03/02/2011, tức ngày mùng Một tháng Giêng năm Tân Mão. Theo nét văn hóa Tết của người Cao Đài, dịp đầu năm cũng là lúc dành thời gian để lau mờ bụi trần gian bám trên sợi dây liên kết tình thân đồng đạo. Năm nay, có thảy 5 phái đoàn đi chúc Tết khoảng 36 thất Cao Đài trong ngày đầu năm. Riêng tôi, được vịnh hạnh tham gia phái đoàn số 4 để làm nên “kỳ tích 4877+”. Để tiện theo dõi từng bước chân của chúng tôi, bây giờ là những khoảng khắc quý giá của “đa âm, cô dương” được ghi lại một cách vừa đủ để gợi hình ảnh đáng giá của ngày mùng Một Tết năm Tân Mão.

Căn theo địa lý mà đo xa gần, vào lúc 9 giờ sáng, chúng tôi quyết định khởi hành và đi đến Thánh tịnh Tân Minh Quang trước hết. Đảnh lễ Thầy Mẹ xong, chúng tôi được thết đãi bữa điểm tâm mang đậm chất xuân! Xong phần “thực” là tiếp phần “đạo”. Chúng tôi đến chúc Tết đại diện Ban Cai Quản của Thánh tịnh. Riêng tôi rất mong sẽ nhìn thấy những giá trị chơn chánh sớm được phục hồi như ngày xưa.

Rời Thánh tịnh Tân Minh Quang, phái đoàn chúng tôi lên Bồng Lai! À, mà phải nói là Thánh tịnh Bồng Lai, thuộc Hội Thánh Tiên Thiên thì mới hiểu chính xác. Nếu không thì có lẽ, một vài suy nghĩ sẽ cho rằng chúng tôi “lên trển” thì chưa đúng lắm! Phải thưa trước rằng những năm gần đây, Thánh tịnh Bồng Lai đã thay đổi nhiều hơn trước. Không còn um tùm cây cối, ngôi tam đài rạng rỡ hơn, hoa đã nhiều hơn cỏ, chánh môn mới xây rất đẹp. Đến nơi, vẫn hương vị trà mứt và tình thân rất thắm thiết. Mà hình như nhờ “một cái máy phát thanh không có nút tắt” nên không khí của những phút giây thân ái trở nên gần gũi và vui vẻ.

Sau khi lên đến Bồng Lai, chúng tôi trở lại đường lộ để đến một thánh tịnh khác, Thánh tịnh Ngọc Chiếu, thuộc Hội Thánh Tiên Thiên. Vẫn là những câu chuyện hỏi han đầu năm, là trà mứt, là cười nói và chúc tụng. Cái đặc biệt của thời gian ở Ngọc Chiếu là chúng tôi được đãi ăn cơm tấm trong lúc mà bụng hãy còn no nóc bởi bánh tét và món bún gì gì đó ở Tân Minh Quang. Phải công nhận năng suất mấy ngày Tết có cải thiện rõ rệt một cách không ngờ. Được mời thì chỉ biết nhận để giữ cái lễ. Mà đã giữ lễ thì phải thật lòng. Nên dường như dĩa cơm tấm nào cũng “trọn vẹn”....tới hột tấm cuối cùng!

Phải công nhận rằng các thánh tịnh của Hội Thánh Tiên Thiên bao giờ cũng có những cái tên mỹ miều. Chúc Tết xong ở Ngọc Chiếu, chúng tôi lại lên xe thẳng tiến đến Thánh tịnh Như Ý Linh Thần Đài. Lại là một cái tên đẹp! Ngôi thánh tịnh đã vương nét thời gian một cách rõ rệt. Có một cái gì đó thật trầm lắng! Dẫu xuân trần vẫn còn nhiều tươi tắn, nhưng cái văng vắng của không gian cũng làm hơi chùng lại cái nét xuân xanh. Với tôi thì đây là lần đầu tiên được đến thánh tịnh. Vẻ đơn sơ cùng với những tình cảm mộc mạc làm nên tính chất đơn giản. Nơi đây là nơi tịnh tứ thời thì chắc là tốt lắm đây!

Chào quý huynh tỷ Ban Cai Quản Thánh tịnh Như Ý Linh Thần Đài xong, chúng tôi đến Thiên Đạo Học Đường Liên Hoa Cửu Cung. Nơi đây hương xuân rất nhiều. Từ cảnh vật, vườn hoa bên ngoài đến các phái đoàn đời có, đạo có viếng thăm chúc Tết khá đông. Chờ một lúc, quý Ban Cai Quản mới tiễn xong một phái đoàn khác đến trước đó để tiếp tục đón chúng tôi. Cũng nhờ chúng tôi đảnh lễ tại Chánh Điện và bên điện thờ đức Mẹ nên thời gian chờ của chúng tôi không quá dài. Vài câu hỏi thăm thân mật, thêm vị trà, bánh, và chúc Tết đầu năm, chúng tôi lại được giữ chân bằng món bánh tét ngon thiệt ngon. Ngon đến nỗi dù trước đó vài phút, tôi có ý chẳng muốn ăn, thì chỉ sau khi nếm khoanh bánh đầu tiên tôi đã phải “hạ nhiệt tâm” xuống để làm luôn 5, 6 khoanh nữa!!!

Hành trình tiếp tục dẫn chúng tôi đến Điện Thờ Phật Mẫu Linh Xuân, của Thánh thất Long Vân. Lúc chúng tôi đến nơi là đúng giờ Ngọ, nên mọi người đang tiến hành lễ cúng Ngọ. Không có dịp vào lễ đức Mẹ, nên chúng tôi chúc Tết đạo tỷ đại diện thánh sở và tiếp tục lên đường.

Chúng tôi lại lên xe đến thăm Thánh thất Long Vân, thuộc Hội Thánh Tây Ninh. Nơi đây, chúng tôi được hiền huynh Thiện Cảnh tiếp đón rất nồng hậu. Tuy không trà, không mứt, vẫn nhiều cái vui. Vì lẽ, hiền huynh đã kể rất nhiều câu chuyện hành đạo mà bản thân huynh và bổn đạo tại thánh thất đã thực hiện. Chuyện tiếp chuyện cứ tuôn ra từng nhịp cũng làm chúng tôi phần nào cảm nhận được tinh thần vì Thầy, vì Đạo của chư đạo hữu nơi đây. Nhiệm vụ của phái đoàn số 4 đã đóng lại khi chúng tôi thăm viếng và chúc Tết quý Ban Cai Quản tại Thánh thất Long Vân.

Chuyến đi đã kết thúc vào lúc 2 giờ 30 phút tại Bửu Điện Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo trong sự trọn vẹn và ý nghĩa nhất của nó. Tất cả thành viên trong đoàn đều xuất phát cùng nhau và trở về nơi xuất phát với nhau. Không ai trong chúng tôi tự ý tách đoàn vì việc riêng. Không ai xem chuyến đi là cuộc du hí với mục đích tìm vui trong cảnh xuân. Dường như mọi người cùng sắp xếp cho một niềm vui duy nhất cho tâm đạo, cho tâm xuân và cho tình thân đồng đạo.

Một ngày đầu năm có ý nghĩa. Mong rằng ý nghĩa cao đẹp sẽ theo và luôn ở cùng với quý đạo huynh, đạo tỷ trong cả năm Tân Mão.

Viết cho ngày đầu năm Tân Mão
Độc Dương Nhân

(Bài viết đăng trên blog phải gỡ hình minh họa)

Friday, February 18, 2011

ĐI ĐẾN TĨNH LẶNG

Đêm khuya

Lâu lắm rồi,mới lại có dịp “vi vu” trên đường vào lúc trời đã vào đêm khuya tịch mịch nơi thôn quê thoáng đãng không gian. Đèn đường không có, con đường được soi tỏ cho những chiếc xe gắn máy chạy trên nó nhờ vào những chiếc đèn xe hoàn toàn khiêm tốn trong đêm đen mịch mịch. Thoảng có đoạn đường sáng rực cả góc trời nhờ vào các vườn Thanh Long được treo đèn. Có nghe nói, trái Thanh Long Bình Thuận ngon và mượt mà hơn mọi Thanh Long của xứ khác mà chưa một lần được tận thị, tận vị nhìn cảm thấy sự khác biệt đó.

Đêm khuya thật thanh vắng, yên lặng. Âm vô thanh át được cả tiếng xe gắn máy trên đường!

Chuông Trống

Giữa đêm mù tịch mịch như thể vô thanh nơi thôn quê, tiếng trống Lôi Âm, chuông Bạch Ngọc vang lên như muốn đánh thức sự mê mê tỉnh tỉnh của tâm tư, tình thức bộn bề trong cõi ta bà. Giờ Tý linh thiêng dường như đang gọi dậy mọi huyền linh của tâm thức. Mọi xì xào của tư tưởng, ồn ào của thế sự dường như cũng muốn chậm lại nhường cho không gian tiếng trống chuông hữu âm hữu lý.

Từng đợt trống chuông trỗi bừng lên trong cảnh đêm không đèn, đánh dấu thời khắc của huyền vi nơi cõi tạm. Âm hữu thanh át được những tâm tình vội vã kiếp nhân sinh!

Vi Diệu

Nhịp thời gian lần trôi nhè nhẹ,
Tiếng thăng trầm khe khẽ buông rơi,
Vào tâm thức ý và lời,
Những khuyên, những bảo làm vơi tâm trần.

Cuộc thế sự lòng người ngơ ngẩn,
Phút thiêng liêng lý ẩn truyền trao,
Có ai tin tưởng đạo mầu
Lắng tâm lãnh hội sắc màu diệu vi.

Những nghi hoặc tạm dừng chân bước,
Để thành tâm tiếp rước Thiên Ân,
Đêm khuya cũng ngắn lại dần,
Trần tâm đã được lại gần Thiên Ân.

Cầu nhân sinh giả chân phân biệt,
Đạt lý cao mãi miết đường chơn,
Giữ tâm học đạo là hơn,
Lợi danh cửa Phật làm cơn khảo trần.


Thanh Long
Mùng Một tháng Giêng, Tân Mão

Monday, February 14, 2011

BÓI PHẬN ĐẦU NĂM

Thường thì người ta đi xem bói, bốc quẻ hay xin xăm đầu năm để biết vận số trong năm và cầu xin được Thiêng liêng gia hộ, độ trì. Và cũng đã từ lâu, một bộ phận lớn người Cao Đài lại có một cách thức cũng tương tự để thấy được bản thân, bản tâm trên đường tu hành học đạo. Cái cách tương tự đó được gọi là hái lộc đầu năm, mà tạm đặt cho cái tên “bói phận đầu năm” để muốn nói về tư tưởng giao cảm của con người và Thượng giới thông qua những lời Thánh thi trong những ngày đầu năm.

Nét văn hóa đặc trưng này đã bắt nguồn từ CQ.PTGLĐĐ, theo như cái hiểu biết của riêng tôi. Riêng năm nay nhờ có đi đến nhiều nơi, tôi nhận thấy cũng có hình thức tương tự. Thế nên, đi đến đâu tôi cũng ráng xin sự hướng dẫn của Thiêng liêng. Cũng nên nói rõ sự khác nhau giữa bói phận và bói toán thông thường. Với cái được gọi là “bói phận”, thì lời dạy của các đấng Thiêng liêng là sự nhắc nhở, khuyên nhủ, dạy bảo. Mỗi lời dạy được “cất” trong một cái bao lì xì và treo lên cây mai hoặc để trong một cái chậu nhỏ. Mỗi người sẽ cầu nguyện và bốc một bao lì xì. Khi lấy ra đọc, thường thì mọi người đều cảm nhận mỗi lời dạy đều phản ánh tâm tư, thật tế cuộc sống tu hành học đạo của bản thân. Căn cứ vào sự hiểu biết về lời dạy bốc được một cách ngẫu nhiên đó mỗi người sẽ chiêm nghiệm, đối chiếu với tâm tư của mình. Cũng từ đó mà thấy được bản thân mình trong năm hành đạo mới!

Năm nay, đi chúc tết 7 thánh thất, thánh tịnh thì đã có 5 thánh sở có văn hóa hái lộc “bói phận” này. Cũng có nơi rất tỉ mỉ thêm phần xuất xứ của Thánh thi, có nơi chỉ đơn giản ghi lại lời dạy của các đấng mà thôi. Có nơi cẩn thận in trên tờ giấy cứng, có chổ in trên giấy thường.

Bây giờ là tự “giải số” của tự thân!

Lời dạy đầu tiên là của đức Vạn Hạnh Thiền Sư. Xem ra năm nay tôi chắc có duyên với đạo pháp nên mới “gặp” đức Vạn Hạnh Thiền Sư trước hết! Nhưng có lẽ sẽ có nhiều trắc trở nên lời dạy lại là bức tranh hai mặt của thành công và trở ngại.

Tướng giỏi điều hành vạn toán binh,
Muôn dân trăm họ hướng theo mình;
Người tu lấp lửng không ngăn nổi,
Lục dục, lục căn với thất tình.1


Trước hết, hai câu đầu cho thấy một hình ảnh của cái thành công bên ngoài qua cái uy danh. Đó chính là sự ảnh hưởng tha nhân, sức thu hút nhân sinh của “tướng giỏi”, người có tài trong cuộc sống. Dường như đó chỉ là một sự tương phản với “Người tu lấp lửng”, có lẽ mới đúng là trọng điểm của lời thơ. Với người tu hành học đạo thì lục dục, lục căn, thất tình mới là đối tượng cần thu nhiếp, cai quản, điều hành, chứ không phải là tha nhân, ngoại thể. Có thể cảm được ý của bài Thánh thi là muốn nói rằng người muốn tu thì không nên “lấp lửng” để rồi quên mất đi nội tâm xáo trộn bởi tình thức, vọng niệm. Muốn thành công thì phải điều quản được 19 tên lính này, mà thực ra có thể chỉ là 13 tên. Như thế cũng cho thấy một năm qua 19 tên lính này đã nổi loạn trong thân mà chưa được “thuần hóa” đúng mức. Nên lời dạy là sự nhắc nhở về tác phong và đạo hạnh! Chắc là đúng như vậy!!!

Sau khi được nhắc nhở về tác phong đạo hạnh, đặc biệt là phần điều quản tình cảm, là lời nhắc nhở về tác phong đạo hạnh, phần Tài và Đức.

Đừng lòng kiêu hãnh cậy mình tài,
Nên nhớ chữ tài cận chữ tai;
Tài ít đức nhiều còn hữu dụng,
Tài suông thiếu đức họa nay mai.2


Chưa thấy năm qua mình phát triển cái Tài ra sao mà được nhắc nhở thế này. Có thể năm sau mình sẽ phát triển cái tài này nên Ơn Trên dặn trước chăng? Nếu nói năm qua rằng tôi có tài, chỉ chắc có mọt cái tài mà nghe thôi cũng sợ, tài đi. Suốt năm Canh Dần, tôi đã đi liên tục, đi sáng, đi tối, đi nữa ngày, một ngày cả đến đi hai, ba ngày; đi nguyên tuần, và gần như tháng nào cũng có đi. Có lúc đi khuya, nhiều khi đi từ sáng sớm. Có lúc đi xe đò, một vài lần đi xe hơi, và rất nhiều khi đi xe gắn máy. Đi một mình có, hai mình có mà ba bốn mình cũng có! Đi như thế thì tự thấy mình tài, nhưng chưa hiểu lắm liệu mình có sinh lòng “kiêu hãnh” vì đi hay không?

Lời dạy quá rõ ràng để suy nghĩ thêm. Đây cũng là quan niệm của thế nhân theo đường lối trọng đức. Nếu không quá “kiêu hãnh” thì tự cảm thấy rằng mình được xác nhận là có “tài”, nhưng phải biết học tánh khiêm nhường, thái độ khiêm cung, để tâm luôn khiêm hạ thì mới được “vô cựu” vậy! Chợt nhớ có một câu danh ngôn đọc được với đại ý là người có tài thì thật tốt, nhưng khi tính ngạo mạn giảm xuống thì cái tài mới có thể ngẩng lên. Hợp lý vô cùng!

Lá “xăm” thứ ba, nghe ra rất là ….tu. Thú vị là lời dạy này giống như là sự “khuyến tặng thêm”. Chuyện là như vầy, lẽ ra mỗi bao lộc chỉ chứa một lời dạy của một đấng mà thôi. Nhưng riêng lá “xăm” của tôi lại được “tự nhiên” nhân đôi lời dạy của hai vị tối cao của toàn đạo được in cả trên 2 mặt của tờ “xăm”. Nên nhận được lá “xăm” cực tuyệt may mắn này, lòng vui hết lớn.

Sau lần được “nhắc nhở” về đạo hạnh của đức Chí Tôn, tiếp theo lần này đức Giáo Tông Vô Vi “phán” như sau:

Là môn đệ Cao Đài Thượng Đế,
Phải dặn lòng phước huệ song tu;
Ấy là công quả công phu,
Thương người mến vật vận trù nội tâm. 3


Đại ý của bài Thánh thi là xác nhận mình là đệ tử của đức Chí Tôn thì phải tâm vật bình hành thể hiện qua con đường tu phước và tu huệ bằng phương pháp công quả và công phu; cụ thể trong đời sống thường nhật là làm cho tâm được bác ái, từ bi, thân thì gần gũi tha nhân, hữu thể; từ đó rèn luyện cái tâm cho hợp với Thiên lý. Đây quả một công án không riêng cho cá nhân tôi. Song tu phước huệ là châm ngôn dành cho phần lớn tín hữu Cao Đài. Nhưng hiểu được, vận dụng được vào cuộc sống cho đúng với Thánh ý thì quả là một thách thức to lớn. Phải suy nghĩ, suy nghiệm để suy tư có thể hiểu thấu lời dạy này mới có thể thực hành trúng được. Suy nghĩ, suy nghĩ...và suy nghĩ....

Sau khi dạy và nhắc tôi về đạo hạnh, hình như vẫn chưa an tâm với tôi, đức Chí Tôn lại chờ tôi ở Điện Thờ Phật Mẫu Linh Xuân để nhắc thêm:

Đừng sợ khó, khó nên công,
Công khó may gìn chữ sắc không;
Không sắc sắc không vui đảnh hạc,
Hạc về chốn cũ dựa rừng tòng.4


Trước hết khi đọc, thấy các câu hai, ba, bốn đều là bảy chữ. Riêng câu đầu chỉ sáu chữ mà thôi. E có đánh máy thiếu nên cố tìm trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển quyển 1 và 2. Khi tìm ra rồi thì thấy không phải do đánh máy thiếu. Nguyên văn trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển quyển 2, phần Thi Văn Dạy Đạo y chang như vậy. Kể ra cũng lạ!

Bài Thánh thi này quả có diệu ý cao xa mà trí phàm nghĩ chưa thông để giải. Chỉ tàm tạm, ngờ ngợ cho rằng hình như là đức Chí Tôn muốn nhắc đến sự tu hành học đạo phải luôn phấn đấu tiến lên bất kể có khó khăn gì. Trong bất cứ khó khăn nào cũng phải giữ cái tâm như như, thanh tịnh, sắc tức thị không, không tức thị sắc làm niềm vui bất tận. Đó chính là phương thức trở về quê cũ thiêng liêng. Thâm sâu, khó hiểu, vĩ đại, khó tầm....Chỉ hiểu được mỗi câu sáu chữ! Lại phải suy nghĩ, suy nghĩ và suy nghĩ....

Tiếp theo là hai lời dạy khác, cũng không ngoài ý nghĩa như bên trên, nhưng được diễn giải theo một cách cụ thể hơn.

Khuyên con ráng định rán phăng,
Con phăng trúng nhiệp bổn căn gặp Thầy,
Các con rán nhớ lời này,
Đạo Thầy gom lại con bầy lòng nhơn.5



Thiết thạch trong lòng kỳ ngươn tận,
Các con đồng tinh tấn bước đi,
Thiền môn trẻ gắng mật trì,
Tu hành gìn giữ cho y giáo điều.6



Như vậy thông qua ba lời dạy và nhắc nhở ở trên, bản thân tạm nhận ra “bài toán” của bản thân trong năm qua và năm tới: vấn đề tâm hạnh và phương châm tu học. Về tâm hạnh, năm sau phải là một cuộc đại chiến nhằm thu phục “thập tam ma” hay “thập cửu ma” và phải học về đức tính khiêm cung từ tốn! Về phương châm tu học, phải suy nghĩ về con đường chơn pháp, song tu phước huệ, để hiểu rõ lý sắc không! Còn việc về “rừng tòng” để “dựa” thì để tính sau!

Giải phận đầu năm thế là đủ. Nếu quý cao minh có cao kiến gì hơn, xin được chỉ giáo!

Bói sinh

*******************************
1. Đức Vạn Hạnh Thiền Sư, Minh Lý Thánh Hội, Mùng Tám tháng Chín, Kỷ Dậu, 18-10-1969
2. Đức Chí Tôn, Thánh Ngôn Hiệp Tuyển
3. Đức Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo, Thánh Ngôn Hiệp Tuyển
4. Đức Chí Tôn, Thánh Ngôn Hiệp Tuyển quyển II, phần Thi Văn Dạy Đạo, bản in lần thứ ba, năm Canh Tuất 1970
5. Câu này không nhớ là “xin lộc” ở thánh sở nào mà có. Cũng không thấy ghi lời dạy của đấng Thiêng liêng nào. Nên cũng không biết xuất xứ. Chỉ có thể đoán là của đức Chí Tôn vì có xưng bằng “Thầy”.
6. Đức Diêu Trì Kim Mẫu.
Ý kiến riêng: Bài thi này nhận được ở Thánh Tịnh Tân Minh Quang vốn là một trong những nơi được xây dựng và tu hành theo Thánh ý. Nhưng mặt sau lại ghi là Đạo Viện Tân Minh Quang. Trước đây thì lại thấy ghi là Đạo viện Tân Minh. Mà cách gọi đạo viện cũng là một hiện tượng lạ so với lịch sử Cao Đài giáo kể từ thời khai đạo đến nay và lạ với cả Pháp Chánh và Tân Luật. Kể ra cũng lạ là ngay trong Thánh tịnh, vốn là trường tịnh lại có thêm đạo viện. Như vậy về quyền pháp cũng là hiện tượng kỳ đến lạ.

Friday, January 14, 2011

HÀNH ĐẠO LÀ BÌNH AN

Trong những ngày liên giao hành đạo tháng 01/2011, nhằm vào tháng Chạp năm Canh Dần, những chuyến liên giao hành đạo không còn “náo nhiệt” như những tháng trước đây. Có tổng cộng bốn dịp “xuất hành”, mà cả thảy đều trong bình an và êm thắm. Không mưa, ít bụi; nắng không gắt, gió không mạnh; khí trời có phần lạnh và phố xá có vẻ tươi tắn hơn khi hoa lá bắt đầu sự sống mới của mình. Nhịp điệu của công tác liên giao hành đạo cũng nhẹ nhàng trở lại như thể đang vào cái lúc thu liễm nội lực chuẩn bị cho sang năm. Có thể thế chăng?

Sự bình an của những chuyến liên giao hành đạo trong tháng cuối năm không chỉ nằm trên những con đường quen thuộc, không chỉ nằm trong khí trời êm ả và còn nằm ở bên trong của mỗi sinh hoạt.

Bốn chuyến đi làm thành hai nhịp. Mỗi nhịp như thế lại bao gồm một đi xa, một đi gần. Nhịp một, bao gồm thánh tịnh Đại Thanh vào ngày 05/01/2011 và Vĩnh Nguyên Tự vào ngày 06/01/2011. Nhịp hai, bao gồm thánh tịnh Thanh Liên Đàn vào ngày 11/01/2011 và thánh tịnh Ngọc Minh Đài vào ngày 12/01/2011. Nói gần thì thiệt chẳng phải quá gần, mà nói xa thì cũng thiệt quá xa. Cái khoảng cách không xa chẳng gần này cũng khiến cho chuyến đi của chúng tôi có tính an nhàn rõ ràng nếu so với những lần đi trước đó. Mọi thứ của hành trình thật gọn gàng...Rất thanh thản!




Còn nhớ cách đây nhiều năm, nhiều năm lắm rồi, thánh tịnh Đại Thanh còn rất hoang sơ và vắng vẻ. Khuôn viên nhiều cây cỏ như thay thế tín hữu mỗi ngày tứ thời kinh kệ để giữ cho nét thiền môn. Ngày trở lại sau nhiều năm dài, nay thánh tịnh đã thật sự đổi thịt thay da. Ngôi tam đài được xây dựng từ năm 2000, đến nay cũng đã mười năm. Bây giờ, sự khang trang, rạng rỡ của ngôi thánh tịnh trong khu dân cư đã hiện rõ hơn bao giờ hết. Tuy vậy, thánh tịnh vẫn giữ được nét đơn giản về hình thức. không quá cầu kỳ và sặc sở, rất hợp với tinh thần
thánh tịnh. Cầu nguyện cho tinh thần này mãi tồn tại như thế vậy! Như vậy, tính đến ngày 05/01/2011, thánh tịnh Đại Thanh đã được thành lập 77 năm, và 10 năm kể từ năm tái thiết ngôi tam đài.

Vĩnh Nguyên Tự vẫn giữ nguyên cái nét xa xưa của một ngôi chùa ba mái. Có lẽ, trong suy nghĩ của con người, nơi đây vẫn mãi là một trong những địa điểm đầu tiên của sự khai sinh ra một thực tướng của nền tân tôn giáo Cao Đài, nên cái vóc dáng của nó không thay đổi qua tháng năm. Buổi lễ có phần thiên về đạo pháp khi cả vị Chánh Hội Trưởng và bài thuyết minh giáo lý đều đề cập đến đạo pháp, công phu. Có lẽ, do buổi lễ kỷ niệm ngày đăng tiên của đức Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn nên chất đạo pháp bao trùm không gian ngôi chùa và tâm thức nhân sanh chăng?




Thánh tịnh Thanh Liên Đàn là một ngôi thánh tịnh sẽ có nhiều đổi mới. Trong sự phát triển của đô thị, đất đai được quy hoạch và xây dựng lại. Ngôi thánh tịnh sẽ phải di dời ra một nơi mới. Nghe nói đâu cũng gần địa điểm hiện tại. Nhưng có lẽ trong tương lai, cái nét bình dị, an nhiên của ngôi thánh tịnh sẽ không còn như ngày hôm nay nữa. Nét cũ kỷ của ngôi thánh tịnh không làm suy giảm tinh thần tu học của tín hữu Cao Đài. Rất ấn tượng với chúng tôi. Trong ngày lễ kỷ niệm lần này, chương trình hành buổi lễ có phần đọc Thánh giáo của đức Diêu Trì Kim Mẫu thay cho phần thuyết minh giáo lý hay học tập giáo lý như một số nơi khác. Giọng đọc và ngâm thơ của đạo huynh xxxx thật ấm và truyền cảm. Điều đó khiến chúng tôi cảm nhận được cái văn của đạo, nghĩa là cái văn chương và vẻ đẹp của việc ngâm nga thi văn dạy đạo để cảm thụ toàn bộ tình cảm, tinh thần và đức tin trong khi tiếp xúc với kinh điển Cao Đài. Và còn hơn thế nữa, mỗi đạo huynh của Ban Cai Quản là cả một kho thơ. Ai cũng tặng thơ cho quý thính giả. Khiến cho quý quan khách phát biểu cảm tưởng cũng có hứng thú thi ca! Thơ tuôn ra như suối, thơ tràn ra như sông, thơ nhập vào cuộc sống, thơ hòa trong sự tu. Thanh tao và bình lặng vô cùng!

Sáu tháng trước đây, vào ngày lễ kỷ niệm lần thứ 76 của thánh tịnh Ngọc Minh Đài, một trận hỏa hoạn đã lấy đi hoạt động của phòng khám phước thiện Đông y và phòng trù của thánh tịnh. Sáu tháng sau đó, thánh tịnh khai trương phòng khám bệnh phước thiện và phòng trù mới. Không chỉ thế, thiên phong đường cũng được cơi nới cho cao ráo và sáng sủa hơn. Cái mới cộng với ý nghĩa hoạt động của phòng khám phước thiện là công trình của tập thể bà con xung quanh thánh tịnh, của đạo hữu trong và ngoài nước không phân biệt hệ phái và tôn giáo. Công trình này được xây dựng bởi tấm lòng hảo tâm, sự tương thân liên ái, tinh thần phụng sự đạo nghĩa của nhân sinh. Cho nên, công trình này là sự thể hiện của Tình Thương, tình người và lẽ hòa ái trong nhân sinh thế sự. Buổi lễ khánh thành có sự góp mặt của các Anh Lớn Hội Thánh Cao Đài Tiên Thiên, đại diện các tôn giáo bạn: Phật giáo Hòa Hảo, Phật giáo, đình thờ đức Quan Thánh,....

Như vậy, kết thúc một niên trình liên giao hành đạo, có thể nói là tâm đã đạt đến thanh tịnh trong vận động! Các đạo sự liên giao cuối năm đã đem lại sự bình yên và hiểu biết. Một sự an bình trong đạo lý!