Friday, April 8, 2011

HÌNH ẢNH CON NGƯỜI TẠI THẾ GIAN

Hay suy nghiệm về con người như một toàn thể


Kiến giải về Nhân Sinh từ nguyên lý âm dương

Nguyên lý âm dương cho rằng mỗi một hiện tượng hay sự vật hiện hữu trong vũ trụ đều là sự kết hợp của hai cơ chế vận động khác biệt nhưng thống nhất với nhau. Hai cơ chế vận động đó được biểu trưng bởi khái niệm “âm” và “dương”. Mối liên hệ âm dương là mối liên hệ có nghĩa theo hàng ngang, và có tương quan theo hàng dọc.


Dương

Âm

Nam

Nữ

Mạnh

Yếu

Tốt

Xấu

Tích cực

Tiêu cực

Trong bảng trên, ta có mối liên hệ về giới có nghĩa Nam – Nữ, liên hệ về tình trạng thể lực có nghĩa Mạnh – Yếu, ….Đó là những mối quan hệ hàng ngang có nghĩa. Tuy nhiên, mối tương quan Nam thì phải có tính Tốt, Mạnh, Tích cực là mối tương quan không thể xác định rõ ràng. Nhưng nếu nói Dương là nói đến Mạnh, Tốt, Tích cực và cả Nam nữa thì đó hoàn toàn đúng.

Điều này có nghĩa rằng Dương là một phạm trù có tính phổ quát bao hàm những thành phần có tính chất “dương” trong mối quan hệ có nghĩa với Âm, những thành phần có tính chất “âm”. Trong khi đó, các thành phần của Dương - Âm chỉ có quan hệ hàng ngang với nhau mà thôi.

Ngoài ra, Dương và Âm còn có vai trò như hai năng lực hoạt động đối nghịch nhau tạo nên sự tồn tại và phát triển của một thực thể. Ở đây, vũ trụ với tư cách là một thực thể phổ quát là sự thống nhất của hai nguyên lực Dương và Âm này. Thực thể phổ quát này có thể là vũ trụ thiên nhiên, cơ thể của con người cũng là một vũ trụ tự nhiên,... hay bất cứ một tồn tại nào có sự phát triển thì đều do sự kết hợp của Dương và Âm.

Từ ý nghĩa đó, xem xét khái niệm Nhân sinh như là một thực thể thống nhất của hai nguyên lực cơ bản: Con Người Tích Cực và Con Người Tiêu Cực. Trong đó, Con Người Tích Cực là thành phần Dương và Con Người Tiêu Cực là thành phần Âm.


Con Người Tích Cực – Dương

Con Người Tiêu Cực - Âm

Nguyên Nhân

Hóa Nhân

Ý Thức Tiến Hóa

Vô thức Tiến Hóa

Đạo lý là phương châm

Lợi ích nhất thời là phương châm

Giác ngộ đạo lý là giá trị nền tảng

Duy lý thiên kiến là giá trị nền

Con Người Tích Cực là tập hợp tuyệt đại đa số các cá thể người chấp nhận và thực hiện công cuộc tiến hóa tâm linh như là một định mệnh không thể không có nơi thế gian. Tùy vào mỗi thời đại mà định mệnh này có thể được hiểu khác nhau, được trình bày khác nhau; nhưng không thể chỉ dựa trên lý trí và kinh nghiệm thuần túy của con người. Định mệnh là sự thức tỉnh và hòa hợp giữa con người trí năng và đạo lý toàn năng. Chỉ khi có sự hòa hợp này mới tạo nên định mệnh của nhân sinh như một hình thể có thể nhận thức được. Và chủ thể nhận thức của định mệnh này chính là Con Người Tích Cực.

Con Người Tiêu Cực là một tập hợp tuyệt đại đa số cá thể con người chấp nhận và thực hiện cuộc sinh tồn của mình như một dòng chảy hạn hữu của thời gian. Họ cho đó là số phận của nhân sinh, hạn hữu tất định và không nhận ra gì hơn ngoài những gì kinh nghiệm đã có và đã mang lại cho họ.

Lằn ranh mong manh duy nhất giữa hai hình ảnh con người này là tâm thức về định mệnh. Sự chuyển hóa qua lại giữa hai đối tượng Con Người Tích Cực và Con Người Tiêu Cực có thể chỉ là một bước dời chân nào đó trong tâm thức, dù là vô tình hay hữu ý.

Do đó, con người là đơn vị cơ bản của nhân sinh toàn thể. Hai mặt của con người là hai động lực của sự vận động cho thực thể nhân sinh. Đó chính là con người trong mối liên hệ tất yếu với xã hội của nó, phản ánh được bộ mặt xã hội của nó, và được xã hội phản ánh nó trong đời sống của mình.



Mối quan hệ giữa Con Người và Nhân Sinh

Nhân sinh chính là con người trong hoạt động của nó. Con người lại là một lớp cắt của nhân sinh.

Ở đây, chúng ta sẽ không xem xét con người tâm lý tức là con người với khả năng ứng đối với ngoại cảnh và chính mình. Chúng ta cũng không xem xét con người như là một thực thể có căn nguyên cùng vũ trụ. Chúng ta không xem xét con người cá thể với toàn bộ đời sống cá biệt trong hoàn cảnh rộng lớn, hoàn cảnh của xã hội. Vậy nên chúng ta chỉ xét đến con người có quan niệm trên bình diện liên quan cùng xã hội, cộng đồng.

Chúng ta xem xét con người phổ quát, tức con người hữu quan, hữu cảm; con người phản ánh định mệnh hoặc chấp nhận số phận của mình. Đó là con người xã hội hay ít ra đó là con người được phản ánh bởi đặc tính xã hội mà nó tồn tại cùng. Đó là một con người phổ quát như một hình ảnh nhân sinh; con người như một năng lực đặc trưng của nhân sinh, vốn chỉ là khái niệm nói đến đời sống của con người. Nếu chẳng có con người trong mối liên hệ phổ quát này thì nhân sinh là khái niệm không có nghĩa.

...Sự sống của con người hiện tình ẩn khúc nhiều bộ mặt sinh hoạt khác nhau, chẳng đồng đều và biểu hiện ra nhiều sắc thái từ mức ôn hòa rồi phát sinh đến sự xung động, phản ứng do bản thể tự tồn chủ quan ích kỷ sai biệt trái với lẽ Đạo, rồi làm sao sự sinh tồn của xã hội lấy môi trường đạo đức khai thác cho cá nhân tiến tới hạnh phúc bảo vệ giá trị con người?1

Sự khác biệt của của từng cá thể người không làm nên giá trị con người nói chung. Do đó, con người phổ quát còn có thể hiểu là giá trị con người nói chung. Do đó, chúng ta chỉ có thể tiếp cận gương mặt của nhân sinh thông qua gương mặt đại diện cho nó, những cảm quan chung nhất của con người phổ quát.

Văn hóa, nghệ thuật, đạo đức, tôn giáo, triết lý,... là những gương mặt cụ thể được nuôi dưỡng bởi con người phổ quát. Cũng giống như việc để hiểu văn hóa Việt Nam, ta cần nghiên cứu con người Việt Nam như một thực thể phổ quát trong cái nhìn chuyên biệt về văn hóa. Nếu cụ thể hơn, ta sẽ phải nghiên cứu con người cá thể, nhưng kể cả chữ “cá thể” ở đây cũng không nói đến một cá nhân Việt Nam cụ thể nào có một cái tên xác định, tuổi xác định, vóc dáng xác định. Không có cá nhân đại diện cho nền văn hóa của một dân tộc. Nói như thế chỉ để chỉ rõ đối tượng con người mà chúng ta thực sự nói đến trong bài viết này, con người như thực thể nhân sinh.

Nhân sinh là hình ảnh con người tại thế gian

Khái niệm “con người tại thế gian” có lẽ làm rõ hơn về nhân sinh. Đó chính là cuộc sống toàn thể của mọi khác biệt về màu da, sắc tóc, ngôn ngữ,.... Không có con người đơn lẻ trong thế gian, vốn là nơi của tập hợp người và vạn hữu trong nhận thức của người. Và con người trong tính toàn thể của nó, hay thế gian là hệ quả của định luật sinh hóa2.

Sự hiện diện của nhơn sanh tại cõi thế gian này không phải là ngẫu nhiên hay vô cớ, mà nó đã nằm trong cái định luật, trong đức háo sanh của Thượng Đế3.

Con người và sự phát triển của nó để định hình thành cõi thế gian là một định luật. Các ngành khoa học đã làm động tác chia cắt cái định luật của vũ trụ theo từng mảng riêng có nghĩa để nhìn nhận những yếu tố tất yếu của nhân sinh theo cách riêng của chúng. Tuy sự phát triển đa dạng của khoa học, khiến con người phổ quát bị chia cắt thành nhiều mảnh, nhiều phần, thậm chí nhiều thực thể người theo từng cái nhìn của ngành khoa học; nhưng con người vẫn thực sự có liên quan mật thiết đến cái định luật nguyên sơ từ ban đầu. Nó được phát biểu giản đơn trong đức háo sanh của Thượng Đế. Nhân sinh là nguyên nhân của Thượng Đế.

Có thể một lúc nào đó, hoặc thực sự luôn là như thế, con người đã không nhận ra hoặc quá say mê trong ảo tưởng làm chủ cuộc sống, làm chủ cõi thế gian bằng lý trí thuần túy nên phủ nhận sợi dây kết nối nhân quả của mình với cái định luật ban đầu. Nên nhân sinh là bất định, bất toàn trên những gì mà nó đã xây nên.

Người sanh tại cõi thế như những lữ hành4 đang đi trên đường thiên lý5.

Cuộc sống của con người, xã hội do con người tạo dựng nên là một con đường dài không chổ kết thúc. Đó cũng là một luật định cho số phận của con người và nơi mà nó tạo ra. Con người sẽ không thể dừng lại trên dòng thiên lý. Bởi lẽ, với số phận là một kẻ tha phương, liệu có thể dừng chân nơi nào được chăng? Bởi lẽ, với số phận là kẻ bộ hành nơi đất khách, liệu có một chổ an trú thân bền vững hay không? Không có gì là ổn định lâu dài. Không có gì tất định không thể đổi thay đối với con người tại cõi thế, đối với nhân sinh. Con người còn bất định hơn nữa trong chuỗi thời gian vô hạn định, trong khoảng không gian vô phương hướng. Và vì thế con người sẽ đến với bất toàn hơn nữa trên suốt chặng đường dài của mình. Nhân sinh là tiến trình bất định, bất toàn, và bất ổn vì ý thức toan tính rời xa cái định luật nguyên sơ.

Suốt chuỗi luân hồi trên đường tiến hóa, những chơn linh ví như những khách lữ hành đã trải qua không biết bao nhiêu trạm dừng chân đổi bến6.

Luân hồi sẽ dẫn dắt nhân sinh lần hồi đi trên hành trình miên viễn đa chiều kích. Nó sẽ không còn là một đường thẳng tắp xa xăm, nhưng may ra vẫn còn thấy lối. Nó sẽ là con đường quanh co rối rắm qua nhiều trạm dừng chân đổi bến, để thay dạng đổi hình, thay tên đổi họ. Trên con đường đó, chơn linh sẽ phải chịu phủ che dầy đặc bởi những giả tướng, bởi sự khác biệt với chính mình. Con người, không chỉ là sự xa quê hương mà còn hơn thế nữa, là sự xa rời chính mình trên hành trình dài hơn hạn hữu thông thường của cảm quan và tri thức. Nhân sinh là một tiến trình lìa xa chính mình để đi trong vô hạn.

Đến đây, ta chỉ thấy một nhân sinh với toàn bộ kết cục bi thảm có dũng khí trong số phận do chính nó định đoạt. Hay giống như những cái vẫy đạp đưa mình ra đại dương thay vì vào bờ. Chỉ thế thôi thì chẳng ra hình ảnh nhân sinh toàn diện.

Như đã nói, nhân sinh toàn diện được tạo hình bởi những cặp lực và phản lực cơ bản: thức tỉnh và chìm đắm; ý thức và vô thức,.... Mà đại diện cho chúng chính là con người tích cực và con người tiêu cực. Nếu con người Tiêu Cực làm nên sự chìm đắm trong bất định của nhân sinh, thì Con Người Tích Cực lại làm nên sự thức tỉnh trong sứ mạng của nhân sinh.

Đạo là Thiên, là tâm, là con người, nên chi con người phải là con người đạo đức.7

Con người chỉ khi vẫn giữ mối dây liên hệ với nguồn cội thiêng liêng của mình mới thấy được sự sống tích cực mà tham gia vào nó như một chủ thể của cuộc sống đích thực. Chỉ khi con người vẫn tin và xác tín cái định luật muôn thời là sợi dây liên hệ đó để làm chuẩn mực cho mọi hành vi và suy tưởng, con người sẽ sớm nhận ra trọng trách của mình. Trọng trách là con người đạo đức đúng nghĩa với bản chất tự nhiên như nhiên của nó. Con người phải lập đức nhờ vào sự học và hành theo đạo lý muôn thời. Đó là điều hiển nhiên đã bị phế bỏ trong cuộc sống thực dụng, khoa học chủ nghĩa, thuần lý nhưng lại thiếu hẳn một cái tâm đạo. Chính đây là lúc mà Con Người Tích Cực thị hiện như một năng lượng vận động có ý hướng, khiến nhân sinh toàn thể được vận động theo một chiều hướng thượng thay vì thuận theo chiều của luân hồi và tha phương trong thế giới nhân sinh.

Con người đạo đức là hạt nhân của NHÂN BẢN, và Con Người Tích Cực chính là nguồn năng lượng của NHÂN BẢN. Chỉ khi có con người đạo đức thì nhân sinh mới có khả năng phản tư về chính mình qua chiếc gương của đạo lý. Chỉ khi có con người đạo đức, nhân sinh mới bắt đầu hành trình trở về với mình.

Bến khởi thủy đang chờ lữ khách,

Giác linh tâm rửa sạch bụi trần;

Sông Hà tắm gội pháp thân,

Mê hay tỉnh hỡi cố nhân phương nào?8



Nói tóm lại, con người là đại diện của nhân sinh. Suy nghĩ về nhân sinh, tức là suy nghĩ về con người trong sự vận động của nó. Sự vận động của con người trong cõi thế gian làm nên hình ảnh nhân sinh. Sự vận động đó nhờ vào tâm thức về định mệnh (sứ mạng) của con người trong cuộc thế. Lằn ranh tâm thức này phân nhân sinh làm hai mặt, hai đối tượng căn bản làm thành mối quan hệ về vận động. Đó là Con Người Tích Cực và Con Người Tiêu Cực. Trong đó, Con Người Tích Cực làm chức năng bảo tồn sứ mạng trong nhân sinh; đem lại một khả tính cho hành trình trở về với bản chất nguyên sơ của con người. Nhờ đó, tính bất định của nhân sinh cũng chỉ là một tạm thời. Nhờ đó tính tất yếu của con đường trở về thành ra là rõ ràng trong nhận thức của con người.


Thanh Long

3/2011

**********************************************

1Đời Đạo Triết Luận, quyển Nhứt, 1966, trang 46.

2“Định luật sinh hóa” nếu giải thích theo Dịch lý thì đó chính là sự thể hiện của tám đức Nguyên, Hanh, Lợi và Trinh của hai năng lực tiên thiên Kiền – Khôn.

3Đức Quan Âm Bồ Tát, Vĩnh Nguyên Tự, Ngọ thời mùng Ba tháng Giêng, Giáp Dần (25-01-1974)

4Lữ hành: 旅 行 lữ có nghĩa là người ở trọ, hành có nghĩa là đi. Lữ hành có nghĩa là người đi xa, kẻ ở trọ. Tương tự, lữ khách 旅 客 cũng sẽ có nghĩa là người đi làm khách nơi xứ xa, người xa xứ, kẻ ở trọ. Trong ngữ cảnh liên quan đến thân phận con người tại thế gian tôi hiểu hai khái niệm này đều chỉ đến nhân sinh là con người rời xa căn nguyên, ở trọ nơi cõi tạm. Nên lữ hành hay lữ khách đều được dịch sang tiếng Anh là the earth lodger.

5Đức An Hòa Thánh Nữ, CQ.PTGL, Tuất thời, Mười Bốn tháng Năm, Quý Sửu (14-06-1973)

6Đức Bác Nhã Thiền Sư, Minh Lý Thánh Hội, Tuất thời, mùng Bảy tháng Giêng, Quý Sửu (09-02-1973)

7Đức Lý Giáo Tông, Chí Thiện Đàn (Minh Đức Nho Giáo) Vĩnh Bình, Tý thời, Hai Mươi Bảy tháng Tám, Nhâm Tý (4-10-1972)

8Đức Lê Văn Duyệt Đại Tiên, CQPTGL, Tuất thời, Rằm tháng Ba, Giáp Dần (07-04-1974)

4877

Đây không phải là số điện thoại khẩn cấp. Đây cũng không là con số có giá trị hữu dụng để dùng được như chính những con số đang là. Đây là lý của số! Tức là mượn số để bộc bạch về cái lý đầu năm Tân Mão.

Bốn là gì? Trong bảng danh sách phân công các phái đoàn đi chúc tết các thánh sở anh em trong tôn giáo Cao Đài, có một nhóm được đánh số 4. Mà 4 là số tượng cho sự cân đối của không gian. Rằng vì trời có 4 phương mà!

Tám là chi? Tám ấy là cơ vận động của vũ trụ...Đừng cho rằng đó là suy tưởng thái quá! Bát Quái nếu không là sự cơ nguyên vận động của vũ trụ thì còn có nghĩa gì khác chăng? Do đó, nói đến số tám phải nói đến sự vận động không ngừng...Tuy nhiên, số 8 ở đây còn có nghĩa là số lượng nhân sự của phái đoàn ngoại giao số 4. Vậy có 8 người trong nhóm số 4. Suy ra lý có nghĩa là có một sự vận động trong khoảng không gian thanh bình của những ngày đầu năm Tân Mão!

Bảy tượng trưng cho lý gì? Trước hết 7 là đơn vị số lượng dùng để cân đong đo đếm. Ở đây là 7 nơi mà phái đoàn số 4 gồm 8 người đã viếng thăm và chúc Tết đầu năm. Nghĩ cho kỹ thì chẳng nên thêm vào lý gì cho rối rắm thêm cái đoạn này.

Vậy bảy nữa có lý chăng? Đương nhiên phải có chứ. Cái số 7 đầu không có là nhường cho cái 7 sau đấy thôi. Bảy trong âm Hán Việt là thất. Cái lý chổ này của số 7 không phải là số lượng, hay số đếm chi hết. Nó có nghĩa là thất. Mà thất ở đây là thánh thất chứ không phải có nghĩa là nhà như thông thường ai cũng biết. Mà thánh thất là danh từ chung để gọi các thánh sở Cao Đài. Có lẽ một vài người sẽ hỏi vậy đến thánh tịnh thì có tính không? Chắc chắn là có? Nếu có thì gọi là chi? Một vài câu hỏi cắc cớ sẽ được nêu ra như thế! Không sao, có thế mới có suy nghĩ cho tường tận. “thánh thất” như là một danh từ chung là dùng để chỉ phần lớn thánh sở, ngôi thờ tự của người Cao Đài. Còn như hai khái niệm “thánh thất”, “thánh tịnh” là 2 danh từ chung chức năng dùng để phân biệt rõ chức năng của từng ngôi thờ tự, thánh sở đó vậy! Nếu đã nói đến danh từ chung chức năng thì phải nói đến “điện thờ Phật Mẫu” và “Tòa thánh” nữa thì chắc là đủ. Tản mạn về Tiếng Việt thực hành trong Cao Đài giáo như thế là tạm đủ.

Như vậy, con số 4877 bình thường đến tầm thường kia bây giờ có một cái lý vô cùng khác thường. Sự khác thường nằm trong ý nghĩa như sau: trong những ngày đầu năm thanh bình, thanh tao và êm đềm cả có 8 nhân tố vận động liên tục trong cái không gian đằm thắm ấy để kết nối tinh thần liên giao, sự thông suốt của tình thân đến 7 thánh thất (7) Cao Đài. Đó là ý nghĩa cao cả là lý của số 4877!

Đến đó cũng chưa hết lý. Vẫn còn một cái lý ẩn tàng mà chỉ có người trong cuộc mới hiểu nổi và nhận ra mà thôi. Nghe nói những năm trước đây, các chuyến của nhóm số 4 này chỉ có phần “âm”, ý là chỉ có giới nữ tham dự mà thôi. Riêng năm nay, đã xuất hiện một điểm “dương” tức là có nam giới tham gia. Tuy là “cô dương” nhưng đã đánh dấu một sự đổi mới, mạnh mẽ, tươi sáng, thông suốt... nói chung là vạn sự phát khởi, đắc cát! Đó là lý của dương chứ không phải tại có nam mà nói thế, mong mọi người hiểu thấu cho ý này! Vậy ra năm ngoái là Canh, năm nay là Tân. Cộng hai năm là Canh Tân, nên đạo sự có nhiều khác lạ, khác biệt và có thể khác xa với mọi năm khác trước đó.

Như vậy, con số 4877 đã được hình thành và mang mặc vào nó những ý nghĩa đó vào ngày 03/02/2011, tức ngày mùng Một tháng Giêng năm Tân Mão. Theo nét văn hóa Tết của người Cao Đài, dịp đầu năm cũng là lúc dành thời gian để lau mờ bụi trần gian bám trên sợi dây liên kết tình thân đồng đạo. Năm nay, có thảy 5 phái đoàn đi chúc Tết khoảng 36 thất Cao Đài trong ngày đầu năm. Riêng tôi, được vịnh hạnh tham gia phái đoàn số 4 để làm nên “kỳ tích 4877+”. Để tiện theo dõi từng bước chân của chúng tôi, bây giờ là những khoảng khắc quý giá của “đa âm, cô dương” được ghi lại một cách vừa đủ để gợi hình ảnh đáng giá của ngày mùng Một Tết năm Tân Mão.

Căn theo địa lý mà đo xa gần, vào lúc 9 giờ sáng, chúng tôi quyết định khởi hành và đi đến Thánh tịnh Tân Minh Quang trước hết. Đảnh lễ Thầy Mẹ xong, chúng tôi được thết đãi bữa điểm tâm mang đậm chất xuân! Xong phần “thực” là tiếp phần “đạo”. Chúng tôi đến chúc Tết đại diện Ban Cai Quản của Thánh tịnh. Riêng tôi rất mong sẽ nhìn thấy những giá trị chơn chánh sớm được phục hồi như ngày xưa.

Rời Thánh tịnh Tân Minh Quang, phái đoàn chúng tôi lên Bồng Lai! À, mà phải nói là Thánh tịnh Bồng Lai, thuộc Hội Thánh Tiên Thiên thì mới hiểu chính xác. Nếu không thì có lẽ, một vài suy nghĩ sẽ cho rằng chúng tôi “lên trển” thì chưa đúng lắm! Phải thưa trước rằng những năm gần đây, Thánh tịnh Bồng Lai đã thay đổi nhiều hơn trước. Không còn um tùm cây cối, ngôi tam đài rạng rỡ hơn, hoa đã nhiều hơn cỏ, chánh môn mới xây rất đẹp. Đến nơi, vẫn hương vị trà mứt và tình thân rất thắm thiết. Mà hình như nhờ “một cái máy phát thanh không có nút tắt” nên không khí của những phút giây thân ái trở nên gần gũi và vui vẻ.

Sau khi lên đến Bồng Lai, chúng tôi trở lại đường lộ để đến một thánh tịnh khác, Thánh tịnh Ngọc Chiếu, thuộc Hội Thánh Tiên Thiên. Vẫn là những câu chuyện hỏi han đầu năm, là trà mứt, là cười nói và chúc tụng. Cái đặc biệt của thời gian ở Ngọc Chiếu là chúng tôi được đãi ăn cơm tấm trong lúc mà bụng hãy còn no nóc bởi bánh tét và món bún gì gì đó ở Tân Minh Quang. Phải công nhận năng suất mấy ngày Tết có cải thiện rõ rệt một cách không ngờ. Được mời thì chỉ biết nhận để giữ cái lễ. Mà đã giữ lễ thì phải thật lòng. Nên dường như dĩa cơm tấm nào cũng “trọn vẹn”....tới hột tấm cuối cùng!

Phải công nhận rằng các thánh tịnh của Hội Thánh Tiên Thiên bao giờ cũng có những cái tên mỹ miều. Chúc Tết xong ở Ngọc Chiếu, chúng tôi lại lên xe thẳng tiến đến Thánh tịnh Như Ý Linh Thần Đài. Lại là một cái tên đẹp! Ngôi thánh tịnh đã vương nét thời gian một cách rõ rệt. Có một cái gì đó thật trầm lắng! Dẫu xuân trần vẫn còn nhiều tươi tắn, nhưng cái văng vắng của không gian cũng làm hơi chùng lại cái nét xuân xanh. Với tôi thì đây là lần đầu tiên được đến thánh tịnh. Vẻ đơn sơ cùng với những tình cảm mộc mạc làm nên tính chất đơn giản. Nơi đây là nơi tịnh tứ thời thì chắc là tốt lắm đây!

Chào quý huynh tỷ Ban Cai Quản Thánh tịnh Như Ý Linh Thần Đài xong, chúng tôi đến Thiên Đạo Học Đường Liên Hoa Cửu Cung. Nơi đây hương xuân rất nhiều. Từ cảnh vật, vườn hoa bên ngoài đến các phái đoàn đời có, đạo có viếng thăm chúc Tết khá đông. Chờ một lúc, quý Ban Cai Quản mới tiễn xong một phái đoàn khác đến trước đó để tiếp tục đón chúng tôi. Cũng nhờ chúng tôi đảnh lễ tại Chánh Điện và bên điện thờ đức Mẹ nên thời gian chờ của chúng tôi không quá dài. Vài câu hỏi thăm thân mật, thêm vị trà, bánh, và chúc Tết đầu năm, chúng tôi lại được giữ chân bằng món bánh tét ngon thiệt ngon. Ngon đến nỗi dù trước đó vài phút, tôi có ý chẳng muốn ăn, thì chỉ sau khi nếm khoanh bánh đầu tiên tôi đã phải “hạ nhiệt tâm” xuống để làm luôn 5, 6 khoanh nữa!!!

Hành trình tiếp tục dẫn chúng tôi đến Điện Thờ Phật Mẫu Linh Xuân, của Thánh thất Long Vân. Lúc chúng tôi đến nơi là đúng giờ Ngọ, nên mọi người đang tiến hành lễ cúng Ngọ. Không có dịp vào lễ đức Mẹ, nên chúng tôi chúc Tết đạo tỷ đại diện thánh sở và tiếp tục lên đường.

Chúng tôi lại lên xe đến thăm Thánh thất Long Vân, thuộc Hội Thánh Tây Ninh. Nơi đây, chúng tôi được hiền huynh Thiện Cảnh tiếp đón rất nồng hậu. Tuy không trà, không mứt, vẫn nhiều cái vui. Vì lẽ, hiền huynh đã kể rất nhiều câu chuyện hành đạo mà bản thân huynh và bổn đạo tại thánh thất đã thực hiện. Chuyện tiếp chuyện cứ tuôn ra từng nhịp cũng làm chúng tôi phần nào cảm nhận được tinh thần vì Thầy, vì Đạo của chư đạo hữu nơi đây. Nhiệm vụ của phái đoàn số 4 đã đóng lại khi chúng tôi thăm viếng và chúc Tết quý Ban Cai Quản tại Thánh thất Long Vân.

Chuyến đi đã kết thúc vào lúc 2 giờ 30 phút tại Bửu Điện Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo trong sự trọn vẹn và ý nghĩa nhất của nó. Tất cả thành viên trong đoàn đều xuất phát cùng nhau và trở về nơi xuất phát với nhau. Không ai trong chúng tôi tự ý tách đoàn vì việc riêng. Không ai xem chuyến đi là cuộc du hí với mục đích tìm vui trong cảnh xuân. Dường như mọi người cùng sắp xếp cho một niềm vui duy nhất cho tâm đạo, cho tâm xuân và cho tình thân đồng đạo.

Một ngày đầu năm có ý nghĩa. Mong rằng ý nghĩa cao đẹp sẽ theo và luôn ở cùng với quý đạo huynh, đạo tỷ trong cả năm Tân Mão.

Viết cho ngày đầu năm Tân Mão
Độc Dương Nhân

(Bài viết đăng trên blog phải gỡ hình minh họa)