Hay suy nghiệm về con người như một toàn thể
Kiến giải về Nhân Sinh từ nguyên lý âm dương
Nguyên lý âm dương cho rằng mỗi một hiện tượng hay sự vật hiện hữu trong vũ trụ đều là sự kết hợp của hai cơ chế vận động khác biệt nhưng thống nhất với nhau. Hai cơ chế vận động đó được biểu trưng bởi khái niệm “âm” và “dương”. Mối liên hệ âm dương là mối liên hệ có nghĩa theo hàng ngang, và có tương quan theo hàng dọc.
-
Dương
Âm
Nam
Nữ
Mạnh
Yếu
Tốt
Xấu
Tích cực
Tiêu cực
Trong bảng trên, ta có mối liên hệ về giới có nghĩa Nam – Nữ, liên hệ về tình trạng thể lực có nghĩa Mạnh – Yếu, ….Đó là những mối quan hệ hàng ngang có nghĩa. Tuy nhiên, mối tương quan Nam thì phải có tính Tốt, Mạnh, Tích cực là mối tương quan không thể xác định rõ ràng. Nhưng nếu nói Dương là nói đến Mạnh, Tốt, Tích cực và cả Nam nữa thì đó hoàn toàn đúng.
Điều này có nghĩa rằng Dương là một phạm trù có tính phổ quát bao hàm những thành phần có tính chất “dương” trong mối quan hệ có nghĩa với Âm, những thành phần có tính chất “âm”. Trong khi đó, các thành phần của Dương - Âm chỉ có quan hệ hàng ngang với nhau mà thôi.
Ngoài ra, Dương và Âm còn có vai trò như hai năng lực hoạt động đối nghịch nhau tạo nên sự tồn tại và phát triển của một thực thể. Ở đây, vũ trụ với tư cách là một thực thể phổ quát là sự thống nhất của hai nguyên lực Dương và Âm này. Thực thể phổ quát này có thể là vũ trụ thiên nhiên, cơ thể của con người cũng là một vũ trụ tự nhiên,... hay bất cứ một tồn tại nào có sự phát triển thì đều do sự kết hợp của Dương và Âm.
Từ ý nghĩa đó, xem xét khái niệm Nhân sinh như là một thực thể thống nhất của hai nguyên lực cơ bản: Con Người Tích Cực và Con Người Tiêu Cực. Trong đó, Con Người Tích Cực là thành phần Dương và Con Người Tiêu Cực là thành phần Âm.
-
Con Người Tích Cực – Dương
Con Người Tiêu Cực - Âm
Nguyên Nhân
Hóa Nhân
Ý Thức Tiến Hóa
Vô thức Tiến Hóa
Đạo lý là phương châm
Lợi ích nhất thời là phương châm
Giác ngộ đạo lý là giá trị nền tảng
Duy lý thiên kiến là giá trị nền
…
…
Con Người Tiêu Cực là một tập hợp tuyệt đại đa số cá thể con người chấp nhận và thực hiện cuộc sinh tồn của mình như một dòng chảy hạn hữu của thời gian. Họ cho đó là số phận của nhân sinh, hạn hữu tất định và không nhận ra gì hơn ngoài những gì kinh nghiệm đã có và đã mang lại cho họ.
Lằn ranh mong manh duy nhất giữa hai hình ảnh con người này là tâm thức về định mệnh. Sự chuyển hóa qua lại giữa hai đối tượng Con Người Tích Cực và Con Người Tiêu Cực có thể chỉ là một bước dời chân nào đó trong tâm thức, dù là vô tình hay hữu ý.
Do đó, con người là đơn vị cơ bản của nhân sinh toàn thể. Hai mặt của con người là hai động lực của sự vận động cho thực thể nhân sinh. Đó chính là con người trong mối liên hệ tất yếu với xã hội của nó, phản ánh được bộ mặt xã hội của nó, và được xã hội phản ánh nó trong đời sống của mình.
Mối quan hệ giữa Con Người và Nhân Sinh
Nhân sinh chính là con người trong hoạt động của nó. Con người lại là một lớp cắt của nhân sinh.
Ở đây, chúng ta sẽ không xem xét con người tâm lý tức là con người với khả năng ứng đối với ngoại cảnh và chính mình. Chúng ta cũng không xem xét con người như là một thực thể có căn nguyên cùng vũ trụ. Chúng ta không xem xét con người cá thể với toàn bộ đời sống cá biệt trong hoàn cảnh rộng lớn, hoàn cảnh của xã hội. Vậy nên chúng ta chỉ xét đến con người có quan niệm trên bình diện liên quan cùng xã hội, cộng đồng.
Chúng ta xem xét con người phổ quát, tức con người hữu quan, hữu cảm; con người phản ánh định mệnh hoặc chấp nhận số phận của mình. Đó là con người xã hội hay ít ra đó là con người được phản ánh bởi đặc tính xã hội mà nó tồn tại cùng. Đó là một con người phổ quát như một hình ảnh nhân sinh; con người như một năng lực đặc trưng của nhân sinh, vốn chỉ là khái niệm nói đến đời sống của con người. Nếu chẳng có con người trong mối liên hệ phổ quát này thì nhân sinh là khái niệm không có nghĩa.
...Sự sống của con người hiện tình ẩn khúc nhiều bộ mặt sinh hoạt khác nhau, chẳng đồng đều và biểu hiện ra nhiều sắc thái từ mức ôn hòa rồi phát sinh đến sự xung động, phản ứng do bản thể tự tồn chủ quan ích kỷ sai biệt trái với lẽ Đạo, rồi làm sao sự sinh tồn của xã hội lấy môi trường đạo đức khai thác cho cá nhân tiến tới hạnh phúc bảo vệ giá trị con người?1
Sự khác biệt của của từng cá thể người không làm nên giá trị con người nói chung. Do đó, con người phổ quát còn có thể hiểu là giá trị con người nói chung. Do đó, chúng ta chỉ có thể tiếp cận gương mặt của nhân sinh thông qua gương mặt đại diện cho nó, những cảm quan chung nhất của con người phổ quát.
Văn hóa, nghệ thuật, đạo đức, tôn giáo, triết lý,... là những gương mặt cụ thể được nuôi dưỡng bởi con người phổ quát. Cũng giống như việc để hiểu văn hóa Việt Nam, ta cần nghiên cứu con người Việt Nam như một thực thể phổ quát trong cái nhìn chuyên biệt về văn hóa. Nếu cụ thể hơn, ta sẽ phải nghiên cứu con người cá thể, nhưng kể cả chữ “cá thể” ở đây cũng không nói đến một cá nhân Việt Nam cụ thể nào có một cái tên xác định, tuổi xác định, vóc dáng xác định. Không có cá nhân đại diện cho nền văn hóa của một dân tộc. Nói như thế chỉ để chỉ rõ đối tượng con người mà chúng ta thực sự nói đến trong bài viết này, con người như thực thể nhân sinh.
Nhân sinh là hình ảnh con người tại thế gian
Khái niệm “con người tại thế gian” có lẽ làm rõ hơn về nhân sinh. Đó chính là cuộc sống toàn thể của mọi khác biệt về màu da, sắc tóc, ngôn ngữ,.... Không có con người đơn lẻ trong thế gian, vốn là nơi của tập hợp người và vạn hữu trong nhận thức của người. Và con người trong tính toàn thể của nó, hay thế gian là hệ quả của định luật sinh hóa2.
Sự hiện diện của nhơn sanh tại cõi thế gian này không phải là ngẫu nhiên hay vô cớ, mà nó đã nằm trong cái định luật, trong đức háo sanh của Thượng Đế3.
Con người và sự phát triển của nó để định hình thành cõi thế gian là một định luật. Các ngành khoa học đã làm động tác chia cắt cái định luật của vũ trụ theo từng mảng riêng có nghĩa để nhìn nhận những yếu tố tất yếu của nhân sinh theo cách riêng của chúng. Tuy sự phát triển đa dạng của khoa học, khiến con người phổ quát bị chia cắt thành nhiều mảnh, nhiều phần, thậm chí nhiều thực thể người theo từng cái nhìn của ngành khoa học; nhưng con người vẫn thực sự có liên quan mật thiết đến cái định luật nguyên sơ từ ban đầu. Nó được phát biểu giản đơn trong đức háo sanh của Thượng Đế. Nhân sinh là nguyên nhân của Thượng Đế.
Có thể một lúc nào đó, hoặc thực sự luôn là như thế, con người đã không nhận ra hoặc quá say mê trong ảo tưởng làm chủ cuộc sống, làm chủ cõi thế gian bằng lý trí thuần túy nên phủ nhận sợi dây kết nối nhân quả của mình với cái định luật ban đầu. Nên nhân sinh là bất định, bất toàn trên những gì mà nó đã xây nên.
Người sanh tại cõi thế như những lữ hành4 đang đi trên đường thiên lý5.
Cuộc sống của con người, xã hội do con người tạo dựng nên là một con đường dài không chổ kết thúc. Đó cũng là một luật định cho số phận của con người và nơi mà nó tạo ra. Con người sẽ không thể dừng lại trên dòng thiên lý. Bởi lẽ, với số phận là một kẻ tha phương, liệu có thể dừng chân nơi nào được chăng? Bởi lẽ, với số phận là kẻ bộ hành nơi đất khách, liệu có một chổ an trú thân bền vững hay không? Không có gì là ổn định lâu dài. Không có gì tất định không thể đổi thay đối với con người tại cõi thế, đối với nhân sinh. Con người còn bất định hơn nữa trong chuỗi thời gian vô hạn định, trong khoảng không gian vô phương hướng. Và vì thế con người sẽ đến với bất toàn hơn nữa trên suốt chặng đường dài của mình. Nhân sinh là tiến trình bất định, bất toàn, và bất ổn vì ý thức toan tính rời xa cái định luật nguyên sơ.
Suốt chuỗi luân hồi trên đường tiến hóa, những chơn linh ví như những khách lữ hành đã trải qua không biết bao nhiêu trạm dừng chân đổi bến6.
Luân hồi sẽ dẫn dắt nhân sinh lần hồi đi trên hành trình miên viễn đa chiều kích. Nó sẽ không còn là một đường thẳng tắp xa xăm, nhưng may ra vẫn còn thấy lối. Nó sẽ là con đường quanh co rối rắm qua nhiều trạm dừng chân đổi bến, để thay dạng đổi hình, thay tên đổi họ. Trên con đường đó, chơn linh sẽ phải chịu phủ che dầy đặc bởi những giả tướng, bởi sự khác biệt với chính mình. Con người, không chỉ là sự xa quê hương mà còn hơn thế nữa, là sự xa rời chính mình trên hành trình dài hơn hạn hữu thông thường của cảm quan và tri thức. Nhân sinh là một tiến trình lìa xa chính mình để đi trong vô hạn.
Đến đây, ta chỉ thấy một nhân sinh với toàn bộ kết cục bi thảm có dũng khí trong số phận do chính nó định đoạt. Hay giống như những cái vẫy đạp đưa mình ra đại dương thay vì vào bờ. Chỉ thế thôi thì chẳng ra hình ảnh nhân sinh toàn diện.
Như đã nói, nhân sinh toàn diện được tạo hình bởi những cặp lực và phản lực cơ bản: thức tỉnh và chìm đắm; ý thức và vô thức,.... Mà đại diện cho chúng chính là con người tích cực và con người tiêu cực. Nếu con người Tiêu Cực làm nên sự chìm đắm trong bất định của nhân sinh, thì Con Người Tích Cực lại làm nên sự thức tỉnh trong sứ mạng của nhân sinh.
Đạo là Thiên, là tâm, là con người, nên chi con người phải là con người đạo đức.7
Con người chỉ khi vẫn giữ mối dây liên hệ với nguồn cội thiêng liêng của mình mới thấy được sự sống tích cực mà tham gia vào nó như một chủ thể của cuộc sống đích thực. Chỉ khi con người vẫn tin và xác tín cái định luật muôn thời là sợi dây liên hệ đó để làm chuẩn mực cho mọi hành vi và suy tưởng, con người sẽ sớm nhận ra trọng trách của mình. Trọng trách là con người đạo đức đúng nghĩa với bản chất tự nhiên như nhiên của nó. Con người phải lập đức nhờ vào sự học và hành theo đạo lý muôn thời. Đó là điều hiển nhiên đã bị phế bỏ trong cuộc sống thực dụng, khoa học chủ nghĩa, thuần lý nhưng lại thiếu hẳn một cái tâm đạo. Chính đây là lúc mà Con Người Tích Cực thị hiện như một năng lượng vận động có ý hướng, khiến nhân sinh toàn thể được vận động theo một chiều hướng thượng thay vì thuận theo chiều của luân hồi và tha phương trong thế giới nhân sinh.
Con người đạo đức là hạt nhân của NHÂN BẢN, và Con Người Tích Cực chính là nguồn năng lượng của NHÂN BẢN. Chỉ khi có con người đạo đức thì nhân sinh mới có khả năng phản tư về chính mình qua chiếc gương của đạo lý. Chỉ khi có con người đạo đức, nhân sinh mới bắt đầu hành trình trở về với mình.
Bến khởi thủy đang chờ lữ khách,
Giác linh tâm rửa sạch bụi trần;
Sông Hà tắm gội pháp thân,
Mê hay tỉnh hỡi cố nhân phương nào?8
Nói tóm lại, con người là đại diện của nhân sinh. Suy nghĩ về nhân sinh, tức là suy nghĩ về con người trong sự vận động của nó. Sự vận động của con người trong cõi thế gian làm nên hình ảnh nhân sinh. Sự vận động đó nhờ vào tâm thức về định mệnh (sứ mạng) của con người trong cuộc thế. Lằn ranh tâm thức này phân nhân sinh làm hai mặt, hai đối tượng căn bản làm thành mối quan hệ về vận động. Đó là Con Người Tích Cực và Con Người Tiêu Cực. Trong đó, Con Người Tích Cực làm chức năng bảo tồn sứ mạng trong nhân sinh; đem lại một khả tính cho hành trình trở về với bản chất nguyên sơ của con người. Nhờ đó, tính bất định của nhân sinh cũng chỉ là một tạm thời. Nhờ đó tính tất yếu của con đường trở về thành ra là rõ ràng trong nhận thức của con người.
Thanh Long
3/2011
**********************************************
1Đời Đạo Triết Luận, quyển Nhứt, 1966, trang 46.
2“Định luật sinh hóa” nếu giải thích theo Dịch lý thì đó chính là sự thể hiện của tám đức Nguyên, Hanh, Lợi và Trinh của hai năng lực tiên thiên Kiền – Khôn.
3Đức Quan Âm Bồ Tát, Vĩnh Nguyên Tự, Ngọ thời mùng Ba tháng Giêng, Giáp Dần (25-01-1974)
4Lữ hành: 旅 行 lữ có nghĩa là người ở trọ, hành có nghĩa là đi. Lữ hành có nghĩa là người đi xa, kẻ ở trọ. Tương tự, lữ khách 旅 客 cũng sẽ có nghĩa là người đi làm khách nơi xứ xa, người xa xứ, kẻ ở trọ. Trong ngữ cảnh liên quan đến thân phận con người tại thế gian tôi hiểu hai khái niệm này đều chỉ đến nhân sinh là con người rời xa căn nguyên, ở trọ nơi cõi tạm. Nên lữ hành hay lữ khách đều được dịch sang tiếng Anh là the earth lodger.
5Đức An Hòa Thánh Nữ, CQ.PTGL, Tuất thời, Mười Bốn tháng Năm, Quý Sửu (14-06-1973)
6Đức Bác Nhã Thiền Sư, Minh Lý Thánh Hội, Tuất thời, mùng Bảy tháng Giêng, Quý Sửu (09-02-1973)
7Đức Lý Giáo Tông, Chí Thiện Đàn (Minh Đức Nho Giáo) Vĩnh Bình, Tý thời, Hai Mươi Bảy tháng Tám, Nhâm Tý (4-10-1972)
8Đức Lê Văn Duyệt Đại Tiên, CQPTGL, Tuất thời, Rằm tháng Ba, Giáp Dần (07-04-1974)